Barabbas – Phần 14 – Kết Thúc
Barabbas
Nobel Văn Chương 1951
Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Chương 14h:
Rồi ông cụ để nói rơi khỏi ngón tay già nua của mình và thở dài. Ông cụ biết rằng đó là tấm thẻ mà Ba-ra-ba bị bắt buộc phải mang trên cổ và nó không thể giúp lão được gì. Ông cụ biết là Ba-ra-ba cũng hiểu như vậy khi trông thấy cái nhìn e lệ và lạc lỏng của lão.
– Ai vậy? Ai vậy? Bọn người kia đồng thanh reo lên khi cụ già đứng dậy. Thoạt đầu ông lão không muốn trả lời và cố gắng né tránh các câu hỏi của họ. Nhưng họ hỏi dồn dập quá, đến nỗi cuối cùng, ông cụ bắt buộc phải nhượng bộ:
– Đó là Ba-ra-ba, người đã được phóng thích thay vì Thầy. Ông cụ nói.
Họ nhìn người lạ mặt và đều sững sốt. Không có gì lại có thể khiến họ ngạc nhiên và sững sờ hơn thế.
– Ba-ra-ba, họ thì thầm. Ba-ra-ba! Kẻ được phóng thích! Ba-ra-ba! Kẻ đã được phóng thích!
Người ta có thể nghĩ là họ không làm sao hiểu nổi. Và mắt họ ngời lên đầy hăm dọa trong khung cảnh tranh tối tranh sáng ấy.
Nhưng ông cụ già trấn an họ.
– Đó là một người khốn khổ, ông cụ già nói, chúng ta không có quyền xét xử lão ta. Tất cả chúng ta đều đầy dẫy tật xấu, và Chúa đã thương xót chúng ta không phải là nhờ công lao đáng khen đáng thưởng của chúng ta. Ta không có quyền kết án một người chỉ vì là người vô thần, không có Thượng Đế.
Họ cùng cúi mặt xuống, và người ta có thể bảo là sau câu nói ấy, sau mấy lời cuối cùng khủng khiếp đó, họ không còn dám nhìn Ba-ra-ba nữa. Họ lặng lẽ lui ra và trở về chỗ mình đã ngồi trước đó. Cụ già vừa nặng nề bước theo họ vừa thở dài.
Bây giờ Ba-ra-ba lại được ngồi một mình.
Suốt những ngày bị giam giữ, lão vẫn cô độc, vẫn ngồi riêng cách xa đám người kia. Lão nghe họ hát những thánh thi đầy đức tin và nói chuyện với nhau, tràn đầy hi vọng về cái chết của họ và về sự sống đời đời đang chờ đợi họ. Họ càng bàn cãi nhau nhiều hơn về điều đó sau khi bản án đã được công bố. Họ vẫn tỏ ra tràn đầy tin cậy không chút nghi ngờ.
Ba-ra-ba lắng nghe, nhưng vùi đầu vào các ý nghĩ của mình. Lão cũng nghĩ về số phận đang chờ đợi lão. Lão nhớ lại con người trên núi Ô-li-ve, đã cùng ăn bánh mì chấm muối với mình, mà bây giờ thì chắc đã chết lâu rồi, và cái đầu lâu nhe răng đang nằm gục trong bóng tối vĩnh cửu …
Sự sống đời đời …
Cuộc sống lão vừa trải qua có một ý nghĩa nào không? Lão không tin là có. Nhưng nói cho đúng thì lão không biết gì cả. Lão không phải là người xét được chuyện đó.
Đàng kia cụ già râu bạc đang ngồi giữa đám người của mình. Ông cụ vừa nghe họ nói, vừa nói cho họ nghe bằng cái giọng nói xứ Ga-li-lê chính cống của mình. Nhưng thỉnh thoảng ông cụ lại tựa đầu lên bàn tay to lớn của mình và im lặng giây lâu. Có lẽ ông cụ đang nghĩ đến bờ hồ Ghê-nê-xa-rét, là nơi cụ muốn được chết. Nhưng số phận của ông cụ không nằm trong chính tay mình. Ông cụ đã gặp Thầy mình trên đường và vị ấy đã bảo: “Theo tôi đi.” Và ông cụ đã phải theo Ngài. Ông cụ mở to đôi mắt trẻ con nhìn ra phía trước, và từ khuôn mặt già nua nhăn nheo với đôi má hóp của ông cụ tỏa ra một nét bình thản mênh mông.
Người ta dẫn họ đi đóng đinh. Họ bị xích chung từng cặp, nhưng vì số họ không chẳn, nên Ba-ra-ba là kẻ đi sau cùng đoàn người không bị xích chung với ai cả. Sự ngẫu nhiên đã xui nên thế. Và lão cảm thấy mình cô độc ở cuối hàng thập tự giá.
Tại đó có rất đông người, và một thời gian khá lâu đã trôi qua trước khi mọi việc xong xuôi, những đám người bị đóng đinh không ngớt trao đổi nhau những lời yên ủi và hi vọng. Không một ai nói gì với Ba-ra-ba cả.
Khi trời sắp tối, đám khán giả đứng lâu đã mỏi, nên đều ra về. Mà tất cả tội phạm cũng đã chết.
Chỉ một mình Ba-ra-ba là còn sống. Khi lão cảm thấy cái chết sắp đến, cái chết mà từ lâu nay lão rất sợ, lão nói trong bóng tối như bảo với màn đêm:
– Tôi xin giao lại … linh hồn …
Và lão tắt thở …
Hướng Dương lược dịch
Thánh Kinh Báo – Tháng 11/1972
Thư Viện Tin Lành – Tháng 4/2012
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.