Barabbas – Phần 14b
Barabbas
Nobel Văn Chương 1951
Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Chương 14b:
Đàn ông đàn bà thuộc đủ các nước, các chủng tộc đang sát cánh nhau, và nếu là một người khác hơn Ba-ra-ba, chắc phải bị thôi miên bởi đám người lúc nhúc đó, tất cả sự giàu sang đó, sự huy hoàng đó, những dinh cơ đồ sộ và vô số những đền thờ dành cho các vị thần khắp thế giới đó, nơi mà những đám người quý phái ngồi trên những cổ kiệu lộng lẫy sơn son thếp vàng được người khiêng đến quỳ lạy trước vị thần của riêng họ, khi họ không thích những hiệu buôn xa xí phẩm của phố Via Sacra hay một trong những ngôi nhà tắm đồ sộ của thành phố. Nếu là cặp mắt của một người khác, chắc đã phản ảnh vẻ say mê đối với tất cả mọi vật đó. Nhưng đôi mắt của Ba-ra-ba không phản chiếu một nét gì cả, có lẽ vì chúng đã nằm quá sâu trong hai lỗ mắt? Những gì lão thấy đều lướt qua trước chúng như không liên hệ gì đến chúng cả. Không! Lão không còn lưu tâm gì đến thế gian nầy nữa. Lão đã trở thành dửng dưng. Ít ra là lão cũng tưởng tượng như vậy.
Nhưng tất cả không phải đều hoàn toàn vô nghĩa đối với lão như lão tưởng, bởi vì lão vẫn còn khinh ghét chúng.
Trong số những vật gợi cho lão cái cảm tưởng mơ hồ không thật cũng gồm cả những đám rước đông người vẫn đi qua các phố với các thầy cả, các tín đồ và những dấu hiệu linh thiêng của họ. Điều đó đã làm phát sinh trong lão một hậu quả kỳ dị, vì lão vốn không tin thần thánh gì nhưng cứ luôn luôn đụng đầu với những trò như vậy, và lão chỉ còn biết tránh một bên cho họ đi qua. Lão nép sát vào tường của các ngôi nhà và với đôi mắt giận dữ, lão nhìn trộm họ diễn hành.
Ngày nọ, lão theo một đám rước như thế đến một ngôi đền lạ lùng mà trước đó lão chưa bao giờ thấy, và một khi đã lọt vào, lão cũng đứng lại như những người khác trước bức tượng của một bà mẹ ẳm trong tay một cậu bé trai. Khi lão hỏi tượng đó của ai thì người ta bảo là của nữ thần Isis rất linh thiêng, và cậu bé Horu. Nhưng sau đó, người ta đã nhìn lão có vẻ khinh bỉ cái con người đã không biết cả tên của Đức Thánh mẫu.
Một người gác cửa trong đền thờ đến đuổi lão đi, và sau khi bước ra khỏi các cánh cửa bằng đồng, đã làm dấu thánh theo nghi lễ để che chở chính mình và cả ngôi đền khỏi kẻ xâm phạm nơi thánh. Có lẽ anh ta nhận thấy rằng Ba-ra-ba đã được thai dựng và sanh ra trong hận thù, mối thù hận hướng về mọi loài thọ tạo cả trên trời lẫn dưới đất, và chống lại Đấng Tạo Hóa của cả bầu trời lẫn trái đất.
Vết xẹo trở thành màu đỏ máu và cái nhìn rung động như một mũi tên trong đôi mắt ẩn kín và man rợ, Ba-ra-ba chạy nhanh ra đường rồi băng ngang đủ thứ lộ lớn và đường hẽm. Cút mau, thằng quỷ!
Lão lạc lõng, không biết mình đang ở đâu, và cuối cùng lão về nhà thì đáng lẽ đã bị trừng phạt – nhưng biết lão vốn được ông chủ mến chuộng, nên bọn cận vệ không dám phạt lão, dầu là một hình phạt rất nhẹ nào. Tuy nhiên, chúng tin vào lời giải thích lộn xộn, bảo rằng mình tình cờ bị lạc lối, vì chưa biết rõ thành phố lắm. Rồi lão rụt vào cái góc của mình trong gian nhà hầm dành cho bọn nô lệ. Trong bóng tối lão cảm thấy mấy chữ “Christis Jesus” bị xóa nung nấu khung ngực đang thở hổn hển của lão như lửa đốt vậy.
Đêm đó, lão mơ thấy mình bị xích chung với một tên nô lệ đang cầu nguyện bên cạnh mình, mà lão không thấy được.
– Tại sao cậu lại cầu nguyện? Lão hỏi. Làm thế có ích lợi gì?
– Tôi cầu nguyện cho cậu đó, tên nô lệ nọ trả lời bằng một giọng rất quen thuộc từ trong bóng tối vang ra.
Lúc ấy Ba-ra-ba hoàn toàn đứng yên để khỏi quấy rầy người đang cầu nguyện, và lão cảm thấy nước mắt mình trào ra. Nhưng khi lão thức giấc và quờ quạng tìm chiếc dây xích dưới đất, thì nó không có ở đó, cả tên nô lệ cũng không. Thế là lão không có bị cột dính với ai hết. Không có một ai trên thế gian này bị buộc chặc vào lão hết.
Ngày nọ, khi ở một mình trong nhà hầm của tư dinh viên tổng trấn, lão thấy dấu hiệu con cá khắc trên một bức tường trong một chỗ kín đáo. Nó đã do một bàn tay vụng về tạo ra, nhưng không có ai nghi ngờ gì về ý nghĩa tượng trưng của nó. Ba-ra-ba tự hỏi trong đám nô lệ có ai là tín đồ Đấng Christ. Lão thường tự hỏi như thế vào những ngày kế tiếp và quan sát từng người một để cố tìm cho ra? Nhưng lão không hỏi ai cả. lão cũng không tìm xem có ai biết không. Nếu lão làm thế thì chắc dễ lắm. Nhưng lão không làm gì cả.
Lão chỉ liên lạc với những tên nô lệ khác khi thật cần thiết mà thôi. Lão không trò chuyện với ai cả, cho nên cũng không biết ai hết. Cũng không ai biết lão hay chăm sóc đến lão.
Tại La Mã có rất nhiều tín đồ Đấng Christ. Lão biết như vậy. Lão cũng biết rằng các tín đồ ấy thường hội họp tại các nhà nguyện hoặc những nơi họp mặt thân hữu tại nhiều nơi trong thành phố. Nhưng lão không hề đi tìm những nơi ấy. Có lẽ thỉnh thoảng lão nghĩ là sẽ làm như vậy. Nhưng lão vẫn không làm. Lão mang tên vị thần của họ trên tấm thẻ của mình, nhưng tên ấy đã bị xóa bỏ rồi.
(còn tiếp)
Hướng Dương lược dịch
Thánh Kinh Báo – Tháng 4/1972
Thư Viện Tin Lành – Tháng 3/2012
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.