Barabbas – Phần 11b
Barabbas
Nobel Văn Chương 1951
Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Phần 11 (tiếp theo):
Xa-hắc buông xuôi chiếc cuốc nhọn của mình. Quá ngạc nhiên về điều mình vừa được nghe, lão như người mất hồn. Lão không thể nào giải nghĩa được tại sao hôm nay dường như mọi sự đối với lão đã trở thành khác hẳn. Hầm mỏ khoát một khung cảnh khác hẳn, không còn gì giống như trước nữa. Lão đã bị xích chung với một người đã thấy chính Thượng Đế.
Chính lúc ấy lão bỗng cảm thấy ngọn roi da của người giám thị vừa đi ngang qua đó vút lên lưng mình. Lão co rúm người lại như để tránh những ngọn roi và lật đật quơ vội chiếc cuốc nhọn đào lia lịa. Khi tên cai tù ác ôn kia bỏ đi, tấm thân vạm vỡ của lão đã đẫm máu, và run rẩy vì những vết roi vừa giáng trên đó. Phải qua một thời gian khá lâu lão mới nói được. Lúc ấy lão xin Ba-ra-ba nói cho mình nghe những việc đã xảy ra, kể cho lão nghe những lần gặp gỡ của Ba-ra-ba với ông thầy giảng đạo. Có phải là trong Đền Thờ, trong nơi thánh chăng? Có phải nhà tiên tri ấy nói về sự trị vì sắp đến của mình chăng? Hay trong trường hợp nào? Ban đầu Ba-ra-ba không muốn tiết lộ gì hết. Nhưng cuối cùng lão miển cưỡng trả lời là tại đồi Gô-gô-tha.
– Gô-gô-tha? Đó là ở đâu vậy?
Ba-ra-ba giải thích rằng đó là nơi người ta đóng đinh những tội phạm.
Xa-hắc im lặng hồi lâu. Lão nhìn xuống đất, rồi thì thầm một mình.
– Thật sao, chính cái lúc mà …
Đó là những điều họ đã nói với nhau lần đầu tiên về ông thầy giảng đạo bị đóng đinh, mà họ sẽ đề cập đến thường xuyên hơn sau đó.
Điều Xa-hắc tha thiết nhất là muốn biết những lời linh thiêng mà nhà tiên tri ấy đã nói và những phép lạ ông ta đã thực hiện. Lẽ dĩ nhiên là lão biết rằng người ta đã đóng đinh người ấy, nhưng lão thích được nghe Ba-ra-ba kể lại những chuyện khác kìa.
Đồi Gô-gô-tha… Đồi Gô-gô-tha… Một cái tên rất lạ đối với lão, liên hệ đến một biến cố rất quen. Biết bao lần lão đã được nghe nói về Cứu Chúa bị đóng đinh và những việc lạ đã xảy ra chung quanh cái chết của Ngài. Lão hỏi Ba-ra-ba có thấy tấm màn trong Đền Thờ sau khi nó bị xé ra không? Dầu sao chắc lão phải thấy quả núi bị nứt, bởi vì lão đang ở ngay lúc đó mà.
Ba-ra-ba đáp rằng tất cả những điều đó có lẽ đã xảy ra, dầu mình không thấy.
– Phải.
Và Xa-hắc nói thêm:
– Còn những người chết đã ra khỏi mồ nữa. Họ đã rời khỏi âm ty để làm chứng nhân cho người ấy, để chứng chắc cho quyền lực và uy danh của Ngài?
– Có. Ba-ra-ba nói.
– Rồi cái bóng tối đã bao trùm quả đất khi người ấy tắt hơi nữa?
– Có. Đó là điều mà Ba-ra-ba đã thấy. Lão có thấy bóng tối đó.
Xa-hắc tỏ ra rất sung sướng khi được biết việc đó, dầu đồng thời lão cũng bối rối khi nghĩ đến chỗ đã xảy ra cuộc hành hình và tưởng như mình trông thấy trước mắt ngọn núi bị nứt ra, nơi Con Thượng Đế đã tự hiến thân làm sinh tế. Phải, chắc chắn là Cứu Chúa đã chịu thương khó và chết. Ngài phải chịu vậy để cứu rỗi chúng ta. Sự việc đã xảy ra như vậy, nhưng người ta không thể nào hiểu được. Xa-hắc thích hình dung Ngài trong khung cảnh huy hoàng. Trong nước Ngài là nơi hoàn toàn khác hẳn ở đây hơn. Và lão lấy làm tiếc là Ba-ra-ba, người bạn cùng xích xiềng với lão, lại chỉ thấy Ngài tại Gô-gô-tha mà không thấy Ngài một lần nào khác nữa. Tại sao lão ta lại thấy Ngài vào đúng lúc ấy. Lão nói với Ba-ra-ba:
– Cậu đã trông thấy người ấy vào chính lúc đó thì thật là lạ. Tại sao lúc ấy cậu lại ở đó?
Nhưng Ba-ra-ba không trả lời gì hết.
Có một ngày Xa-hắc hỏi lão có thật là không còn thấy người ấy ở chỗ nào khác nữa hay không. Ba-ra-ba đã chần chờ một lát rồi mới đáp. Và lão cũng bảo rằng mình cũng có mặt trong sân dinh tổng đốc là nơi ông thầy giảng bị xét xử, rồi lão thuật lại những việc đã xảy ra. Lão mô tả ánh hào quang đó, lão không nhận xét thêm là có lẽ mình bị chói mắt sau khi vừa từ trong ngục tối ra. Lão kia chắc sẽ không thích thú gì.
Phải, không ai thích nghe nói như vậy hết. Nhưng nếu lão bỏ qua câu giải thích về chuyện lạ đó đi, Xa-hắc sẽ rất sung sướng và sẽ còn muốn nghe câu chuyện thêm nữa và mãi mãi. Gương mặt lão sáng ngời lên, và Ba-ra-ba có cảm tưởng là mình cũng chia xẻ được niềm vui với lão. Mỗi lần Xa-hắc yêu cầu thì gã kể ngay việc lạ thường mà lão đã thấy vào cái ngày xa xôi đó, và dường như thấy cách rõ rệt hơn.
Ít lâu sau lão tiết lộ cho Xa-hắc biết là mình cũng chứng kiến sự sống lại của Thầy. Thật ra thì chính gã cũng không thấy người ấy sống lại vì không có ai thấy được việc đó cả. Nhưng lão đã thấy một thiên sứ từ trời lao xuống, một cánh tay đưa thẳng ra như mũi giáo và vạt áo choàng phất phới phía sau như một ngọn lửa. Mũi giáo cấm phập vào khoảng giữa vách đá và tảng đá chận cửa mộ, đã tách rời chúng ta. Bây giờ lão mới thấy là trong mộ trống rỗng.
Xa-hắc nghe mà sững sốt, đôi mắt đầy tin tưởng nhìn chăm vào Ba-ra-ba. Có thể như vậy được sao? Có thật là tên nô lệ khốn nạn dơ nhớp này đã thấy mọi sự đó không? Lão đã có mặt lúc phép lạ vĩ đại nhất trong các phép lạ được thực hiện chăng? Vậy thì lão là ai? Và làm sao chính lão Xa-hắc lại có cái ân huệ là được xích chung với người đã mục kích tất cả những điều đó, đã được ở rất gần bên Cứu Chúa như vậy?
Đang sống trong hạnh phúc của những điều mình vừa được nghe đem đến, lão biết là bây giờ mình phải tiết lộ điều bí mật của mình cho bạn và không thể nào nín lặng được nữa. Lão thận trọng nhìn quanh cho chắc là không có ai đến gần chiếc đèn dầu đang cháy loe loét bên vách đá và dưới làn ánh sáng chập chờn đó, chỉ cho gã tấm thẻ nô lệ của mình đeo trên cổ.
Tất cả bọn nô lệ đều có một tấm thẻ tương tự, bên trên có khắc dấu hiệu của ông chủ họ. Đối với những tên nô lệ của hầm mỏ thì có dấu hiệu của đế quốc La-mã. Nhưng ở mặt trái tấm thẻ của Xa-hắc, cả hai có thể nhận ra những dấu kỳ dị, bí mật, họ không thể nào đọc được, nhưng theo lời giải thích của Xa-hắc, thì chúng tượng trưng cho tên của người bị đóng đinh, của Cứu Chúa, của chính Con Thượng Đế. Nhưng lúc Ba-ra-ba ngạc nhiên nhìn vào những dấu khắc lạ kỳ, dường như có một giá trị ma quái đó, thì Xa-hắc nói nhỏ rằng chúng có nghĩa là lão ta đã hiến thân cho Con Thượng Đế, lão là nô lệ của Ngài. Rồi lão bảo Ba-ra-ba rờ lên những chữ ấy, và Ba-ra-ba giữ tấm thẻ lại rất lâu trong bàn tay mình.
Có lúc họ tưởng mình nghe thấy người giám thị đến gần, nhưng họ đã lầm, và lại chụm đầu vào nhau trên mấy chữ đó. Xa-hắc kể rằng một tên nô lệ người Hi-lạp đã khắc mấy chữ ấy. Người nô lệ đó là một tín đồ được, đã nói cho lão biết về Cứu Chúa và sự trị vì sắp đến của Ngài, và như thế cũng dạy cho lão tin Ngài. Xa-hắc đã gặp người ấy trong lò đúc, là nơi chưa hề có ai chịu nổi quá một năm. Người Hi-lạp kia cũng không chịu nổi lâu đến thế. Khi anh ta tắt hơi trong cái lò lửa đó, những lời cuối cùng Xa-hắc nghe anh ta thì thầm là: “Lạy Chúa, xin đừng bỏ con.”
Sau khi người ấy chết người ta đã chặt chân ra để thu hồi những chiếc cùm bằng sắt cho dễ, rồi ném xác vào lửa như điều họ vẫn làm trong lò đúc, Xa-hắc không hi vọng gì được chấm dứt cuộc đời một cách khác hơn. Nhưng một thời gian sau, một số nô lệ trong đó có lão, đã được đưa đến các hầm mỏ này, là nơi người ta đang cần đến họ.
Bây giờ thì Ba-ra-ba biết rằng lão cũng là một tín đồ được, một nô lệ của Thượng Đế. Lão kết luận như vậy khi nhìn chăm một cách thật thà vào bạn mình.
Những ngày tiếp theo, Ba-ra-ba trở thành im lặng, ít nói. Rồi bằng một giọng ngập ngừng và kỳ dị lão hỏi Xa-hắc có vui lòng khắc những chữ đó lên tấm thẻ nô lệ của mình không.
Thánh Kinh Báo
Tháng 11/1970
(Còn tiếp)
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.