Barabbas – Phần 11e
Barabbas
Nobel Văn Chương 1951
Tác giả: Par Lagerkvist
Người dịch: Hướng Dương
Phần 11 (tiếp theo):
Viên giám thị suy nghĩ về vị thần vô danh, cứ thường nghe nói đến thì lại càng trở thành khó hiểu đó. Cứ nghĩ mà xem, có phải chỉ có một vị thần toàn năng duy nhất không? Co phải chính là vị thần mà ta phải thờ lạy chớ không nên thờ lạy một vị thần nào khác hơn không? Cứ nghĩ mà xem, có phải chỉ có một vị thần toàn năng duy nhất, ngư trị cả trời và đất và giảng đạo của mình khắp nơi, cả đến cái cõi âm ty như tại đây không? Một thứ giáo lý lạ lùng mà không rõ ràng gì cả. “Các con hãy yêu mến lẫn nhau … Các con hãy yêu mến lẫn nhau…” Không ai lại quan niệm được một câu chuyện như thế? …
Ông ta dừng lại trong một chỗ thật tối giữa những ngọn đèn, để có thể suy nghĩ kỹ càng hơn tại nơi vắng vẻ đó. Bỗng ông ta nghĩ ra một việc mà mình phải làm. Ông ta phải tống tên nô lệ đã tin vào vị thần vô danh kia ra khỏi hầm mỏ, nơi mà cuối cùng mọi người đều phải ngã gục. Ông ta phải tìm cho lão một việc làm khác ở trên kia, dưới ánh mặt trời. Ông ta không hiểu vị thần kia và giáo lý của vị ấy, đó là điều bất khả đối với ông ta, nhưng ông ta phải hành động như vậy, ông ta có cảm tưởng rằng đó là ý muốn của vị thần ấy.
Ngay lần đầu tiên trở lên mặt đất, ông ta đến tìm người giám thị các nô lệ làm việc trong phần đất gần hầm mõ. Khi ông kia, là một anh chàng có gương mặt khỏe mạnh của một bác nhà quê có cái miệng to thô kệch, biết đầu đuôi câu chuyện, anh ta nói trắng ra rằng đề nghị ấy không hấp dẫn gì hết đối với mình bởi vì anh ta không thích một tên nô lệ của hầm mõ.
Thật ra thì anh ta đang cần thêm một vài người nữa, nhất là vào vụ cấy mùa xuân, vì như thường lệ, số bò không đủ dùng. Nhưng anh ta không thèm những tên thợ mõ. Chúng đều thiếu khả năng, thiếu sức lực, mà hơn nữa là những tên nô lệ khác cũng không thích chúng. Người ta sẽ nói: Để chúng nó lên mặt đất làm gì? Tuy nhiên cuối cùng anh ta vẫn bị người bạn lớn hơn của mình thuyết phục, một người vẫn có tài đạt được mục đích mình muốn. Và ông ta trở về hầm mõ.
Hôm sau ông ta bàn bạc với Xa-hắc về người bị đóng đinh lâu hơn những lần trước. Rồi nói cho lão biết sự sắp xếp của mình: Xa-hắc sẽ đến trình diện với người gác cửa để được tháo cùm và tách rời người người bạn đồng tù của mình. Rồi người ta sẽ đưa lão ra khỏi hầm mõ và giao tận tay người chủ mới.
Xa-hắc nhìn ông ta nhưng không hiểu điều mình vừa nghe. Có thể chuyện đó là thật sao? Viên giám thị quả quyết là thật, và thêm rằng chắc đó là do ý của vị thần mà Xa-hắc thờ phượng, cho nên nó phải được thực hiện.
Xa-hắc chắp tay lên ngực và đứng yên lặng một hồi lâu. Rồi lão bảo rằng lão không thể nào rời khỏi bạn mình, vì cả hai đều thờ cùng một Chúa và có cùng một đức tin như nhau.
Viên giám thị nhìn Ba-ra-ba, lộ vẻ kinh ngạc:
– Cùng một đức tin! Nhưng lão ấy đâu có quì gối cầu nguyện như cậu?
– Phải, Xa-hắc nói mà hơi bối rối, rất có thể là như vậy, nhưng anh ấy thì được gần Ngài cách khác hơn tôi, anh ấy đã từng được đứng gần cây thập tự mà trên đó Cứu Chúa đã chịu thương khó và chết. Có một ngày, anh ấy đã thấy một vùng hào quang phủ Ngài, và một lần khác, cũng thấy một thiên sứ như lửa lật đổ tảng đá chận cửa mộ để Ngài sống lại khỏi những kẻ chết. Vẻ uy nghiêm của Ngài đã được người bạn của tôi đây tiết lộ cho tôi biết đó.
Viên giám thị lắc đầu, lạc hướng vì tất cả những chuyện không thể nào hiểu nổi ấy, và liếc nhìn cách khinh bỉ con người có cái thẹo trên má và chẳng bao giờ người ta có thể nhìn thẳng vào mắt và ngay bao giờ cũng đang quay nhìn chỗ khác. Có thể nào lão ta cũng thuộc về vị thần của Xa-hắc? Viên giám thị thấy rằng lão ta rất dễ ghét.
Và ông ta không muốn đưa lão ra khỏi hầm mõ. Nhưng Xa-hắc lập lại:
– Tôi không thể nào rời khỏi anh ấy.
Viên giám thị liền lầm bầm điều gì trong miệng rồi lại liếc nhìn Ba-ra-ba lâu hơn. Cuối cùng ông ta miển cưỡng nhượng bộ và bằng lòng thỏa mãn ước muốn của Xa-hắc. Hai người bạn vẫn được xích vào nhau như trước. Rồi ông ta lìa họ để lại đắm mình vào nơi vắng vẻ.
Khi Xa-hắc và Ba-ra-ba đến trình diện với người gác cửa vào giờ đã qui định, cả hai được cởi xiềng và đưa lên khỏi hầm mõ. Vừa khi được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời chiếu rọi trên các triền núi thơm ngát mùi hoa sim và cam tòng hương, trên các thung lũng, các cánh đồng xanh mướt và ở đằng xa kia là mặt biển, Xa-hắc quì ngay xuống và trong cơn xuất thần, lão đã thét lên:
– Ngài đã đến! Ngài đã đến rồi! Nước Ngài là đây!
Người giữ tù đã đến để đưa họ đi, ngạc nhiên nhìn con người đang quì gối đó. Rồi lão dựng gã dậy bằng một cái đá:
– Ê, đi chớ, gã nói.
Thánh Kinh Báo
Tháng 4&5/1971
(Còn tiếp)
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.