Chúa Giê-xu Tại Bắc Kinh – Chương 2.c
Loạn Thái Bình Thiên Quốc
Vào năm 1816, một là giáo sĩ Tin Lành tên là William Milne, làm phép Báp têm cho một người thợ in tên là Liang Fa (1784 hoặc 1788-1855). Người Trung Quốc mới tin Chúa này tạo được một tác động lớn trên lịch sử Trung Quốc, hơn cả sức tưởng tượng của người Thầy Cơ Ðốc đầu tiên của ông là Morrison. Vào năm 1834, Liang Pa cho Hồng Tú Toàn (Hong Xinquan) (1813-1864) một truyền đạo đơn. Là ứng viên làm quan tại tỉnh Quảng Ðông (Guangdong) song ông không đọc truyền đạo đơn này hoặc tìm cách hiểu nội dung của sách cho đến 9 năm sau, khi ông thi rớt một lần nữa và điều này đã làm cho ông tức giận chống lại những người Mãn Châu đang cai trị Trung Hoa. Qua các giấc mơ và các điềm chiêm bao lạ, ông tin là ông được Ðức Chúa Trời kêu gọi, Ðức Giê Hô Va trong Cựu Ước, thanh tẩy Trung Quốc khỏi những tệ đoan tham nhũng và lật đổ triều đại nhà Thanh.
Bắt đầu từ cuối thập niên 1840, tổ chức “Hội của những người thờ Chúa” buổi đầu thực hành đời sống khổ tu, nhấn mạnh sự phân biệt nam nữ và cung kính thờ phượng Thượng Ðế, hoặc Ðức Chúa Trời, như người Trung Quốc thường gọi. Ông tuyên bố là ông sẽ thành lập Vương Quốc Thái Bình trong tiếng Trung Quốc cá nghĩa là Thái Bình Thiên Quốc. Buổi đầu người Tin Lành nhiệt tình theo khá nhiều. Song lòng nhiệt thành đó tiêu tan sau khi Hồng Tú Toàn tuyên bố ông là người em của Chúa Giê-su. Một vài nhà quan sát Cơ Ðốc ngoại quốc vẫn thấy một vài điểm tích cực trong cuộc nổi dậy. Griffith John, thuộc hội London Missionary Society, vào năm 1860 đã viết: “Tôi hoàn toàn tin rằng Ðức Chúa Trời đang diệt việc thờ hình tượng trong nước này qua những người phản loạn, và Ngài sẽ dùng họ cùng với các giáo sĩ ngoại quốc để thay Cơ Ðốc Giáo vào đó.” (21)
Từ năm 1850 cho đến năm 1864 năm họ bị hoàn toàn dập tắt với sự giúp đỡ của các cố vấn Tây Phương ủng hộ triều đình nhà Thanh, cuộc nổi dậy phá hủy miền Trung và miền Nam Trung Quốc đưa đến sự chết của hơn 20 triệu người Trung Quốc. Các người cầm quyền Trung Quốc nghĩ là Cơ Ðốc Giáo có thể là một phần tử nếu có cuộc phản loạn chống lại triều đình cũng giống như các nhóm Phật Giáo hoặc Lão Giáo quá khích hoặc nhóm mũ đỏ đã nổi lên chống lại quân Mông Cổ.
Vào Tận Trọng Tâm của Trung Quốc.
Dầu vậy vào những năm đầu của loạn Thái Bình Thiên Quốc, một giáo sĩ khác đến Thượng Hải. Cách truyền giáo của ông đã tạo được một tác động lớn hơn tất cả các nhà truyền giáo ngoại quốc trong công tác trồng Cơ Ðốc Giáo sâu vào vào xã hội Trung Quốc. Ông tên là Hudson Taylor (1832-1905). Chỉ mới 21 tuổi, khi ông rời Liverpool đến Thượng Hải dưới sự bảo trợ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Trung Quốc (Chinese Evangelization Society (CES)). Khi ông mới sanh ra, cha mẹ ông đã cầu nguyện: “Cầu xin Chúa giúp cho em có thể hầu việc Ngài tại Trung Quốc.” Khi cậu bé vừa lớn lên, Taylor đã nói với bạn: “Khi tôi trở thành người lớn, tôi sẽ đi Trung Quốc.” (22) Hudson Taylor là một người bất thường từ buổi đầu. Ông đã ăn mặc như người Trung Quốc, và không giống như những giáo sĩ Anh và giáo sĩ người ngoại quốc ở Thượng Hải. Ông không thích lối sống cô độc và biệt lập của những người Anh và luôn tìm cách sống với những người Trung Quốc. Ðiều này làm cho ông bị chính quyền Trung Quốc tại Thượng Hải và các giáo sĩ khác, cũng như các nhà buôn ngoại quốc không muốn liên lạc với ông.
Nhưng mộng của Taylor là đem Cơ Ðốc Giáo ra khỏi các thương cảng hiệp ước và đi vào tận trọng tâm Trung Quốc. Vào năm 1865, với số tiền riêng 10 bảng Anh, ông thành lập Hội Truyền Giáo Trung Hoa Nội Ðịa (China Inland Mission (CIM)). Nguyên tắc hành động của hội có vẻ thoáng quá lúc bấy giờ. Hội là một tổ chức liên phái, giáo sĩ không cần có giáo dục chính thức, ngay các cô không có gia đình cũng được nhận làm giáo sĩ, họ phải mặc quần áo Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo của Hội phải ở tại Trung Quốc, không phải ở Luân Ðôn. Sau này ông viết: “Trung Quốc không thể được chinh phục bởi những người đàn ông, đàn bà muốn sống đời sống yên tĩnh, nhàn hạ. Những người chúng ta cần là người để Chúa Giê-su và linh hồn các người Trung Quốc lên hàng đầu, bất cứ lúc nào, ngay cả đời sống của chính mình phải xem là thứ yếu.” (23)
Năm 1866 Taylor trở lại Trung Quốc với vợ và 4 con cùng với 16 giáo sĩ trẻ sẵn sàng làm việc cùng với 5 giáo sĩ có mặt tại Trung Quốc theo sự hướng dẫn của Taylor. CIM được nhiều người biết, và tăng số hội viên dần dần, cho đến năm 1895 hội có 641 giáo sĩ từ nhiều nước làm việc trong khắp các tỉnh ngoại trừ Tibet, Mông Cổ và Tân Cương.
Về một phương diện, Taylor làm theo Ricci một cách vô thức. Ricci ba thế kỷ trước đã muốn mình sinh sống như một người Trung Quốc được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ngôn ngữ là điều quan trọng cũng như một hiểu biết về lịch sử và văn hóa của Trung Quốc. Nhưng về khía cạnh khác, Taylor cũng giống như các tu sĩ dòng Dominican hoặc Franciscan. Họ là những người đã quấy rầy các tu sĩ Dòng Tên khi họ muốn đến các tầng lớp thấp của Trung Quốc trong khi Ricci, Schall và Verbiest tìm cách làm vừa lòng tầng lớp học thức, cai trị Trung Quốc.
Không bao lâu sau đó, một thế hệ giáo sĩ mới đến Trung Quốc. Họ quyết định bắt chước những thành quả của Ricci trước đó chẳng hạn James Legge (1815-1897), ông xác định giáo sĩ Tây Phương không thể nào hữu hiệu trong công tác truyền giáo cho đến khi họ am tường một cách sâu rộng văn hóa và lịch sử Trung Quốc, ông dành sức lực để dịch các sách cổ điển của Trung Quốc, sách mà các người làm quan phải học để đi thi. Legge rất quí trọng Khổng Tử và thường gọi ông là “Nhà Thông Thái.”
Các giáo sĩ khác quyết định là cách để giới thiệu Cơ Ðốc Giáo cho Trung Quốc là phục vụ Trung Quốc cách mà ngay cả người Trung Quốc kể cả người vô tín cũng nhận thấy là hữu hiệu và ích lợi. Peter Parker (1804-1888) là một người Mỹ, một bác sĩ giải phẩu tài giỏi tại Quảng Ðông. Ông chữa cho nhiều người kể cả những quan chức chống lại các người buôn bán thuốc phiện. Timothy Richard (1845-1919) là một người giáo sĩ Báp-tít người xứ Wales vào các thập niên 1880 và 1890. Ông đã tìm cách làm chứng cho tầng lớp trí thức giống như Ricci. Richard dấn thân tìm cách giới thiệu cho những người học thức Trung Quốc không những tư tưởng Cơ Ðốc mà cả kiến thức thế giới bên ngoài qua tờ báo tiếng Hoa The Globe Magazine. (24) Tờ báo này trước tiên được xuất bản hằng tuần sau đó hằng tháng từ năm 1875 cho đến năm 1907. Ông còn ủng hộ các cố gắng của các giáo sĩ Mỹ trong phần thứ hai của thế kỷ thứ 19 đem giáo dục Cơ Ðốc vào Trung Quốc vượt qua các bậc tiểu học, trung học để đi vào bậc đại học.
Các giáo sĩ tiền phong khác lo về giáo dục đại học đã làm cho các cố gắng của Richard tiến thêm lên. Một vài sinh viên tốt nghiệp Ðại Học Yale đã tham dự vào mục vụ này. Một trong những người đó là Henry Winters Luce (1868-1941), thân sinh của Henrry Luce nhà sáng lập tuần báo Time. Ông là một trong những người cổ võ cho sự phát triển nền Ðại Học tại Trung Quốc và ông làm Phó Hiệu Trưởng Ðại Học Bắc Kinh, đại học này phát xuất từ đại học Yen Ching, một chương trình được các sinh viên Ðại Học Yale đề xướng.
BIẾN MẤT LẦN THỨ BA
Khi Trung Quốc bị buộc phải đối đầu với Tây Phương, phản ứng bài ngoại tại địa phương bắt đầu xuất hiện. Ðiều này đã xảy đi xảy lại nhiều lần từ cuối thế kỷ thứ 19 cho đến khi Mao Trạch Ðông qua đời, và khi tả phái của Ðảng Cộng Sản Trung Quốc bị suy sụp. Từ năm 1949, Mao Trạch Ðông nhiều lần chủ trương như thế. Công cuộc bài ngoại nguy hại nhất là “Loạn Quyền Phỉ (Boxer Rebellion) vào năm 1900. Trong khoảng thời gian này, quân nổi loạn đã vây hãm các vùng người nước ngoài tại Bắc Kinh trong vòng 55 ngày.
Các quân phản loạn đã đánh mạnh vào các tín hữu Cơ Ðốc người Trung Quốc cũng như những người nước ngoài. Hơn 230 giáo sĩ Tây Phương bị giết, trong số đó có 189 người Tin Lành, 79 người từ Hội Truyền Giáo Trung Hoa Nội Ðịa (China Inland Mission).
Khi quân đội từ tám quốc gia (Mỹ, Anh, Nga, Nhật, Ý, Áo, Pháp và Ðức) đến giải cứu kinh đô khỏi tay của quân phiến loạn Quyền Phỉ, họ đòi Trung Quốc phải bồi thường nặng. Hudson Taylor nhà sáng lập CIM từ chối bồi thường từ Trung Hoa về sự mất mát mạng người và tài sản do loạn Quyền Phỉ gây ra. Năm 1860 ông đã viết: “Nếu tôi có 1,000 đời sống, tôi cũng dành tất cả cho Trung Quốc, không giữ lại một người.” Nước Mỹ yêu cầu tiền bồi thường phải được sử dụng để tạo điều kiện giáo dục cho sinh viên Trung Quốc.
Triều nhà Thanh, triều đại cuối cùng của Trung Quốc cũng dần dần kết thúc. Khi nó hoàn toàn sụp đổ vào năm 1911, nhà lãnh đạo và người xây dựng Cộng Hòa Trung Quốc là một tín hữu Tin Lành. Ông Tôn Dật Tiên (1866-1925), một người từ tỉnh Quảng Ðông (Guangdong). Ông ta được giới thiệu về Cơ Ðốc Giáo khi ông đi học tại một trường Tin Lành Anh ở Hawaii sau khi ông di dân đến đó vào năm 1878. Tư tưởng chính trị của Tôn (1866-1925) theo ba nguyên tắc. Ba nguyên tắc của ông đến từ các lý tưởng chính trị của Mỹ và ý tưởng của ông là xây dựng một nền Cộng Hòa, để thiết lập một xã hội được thế giới công nhận như một nền dân chủ. Song Tôn Dật Tiên thiếu khả năng chính trị, tài quân sự, và đặt biệt là sự tàn ác để có dập tan các lãnh chúa địa phương. Các lãnh chúa này tạo ra tình trạng hỗn loạn, đã dày xéo Trung Quốc từ lúc nhà Thanh sụp đổ cho đến Mao Trạch Ðông thắng lợi 38 năm sau. Tôn Dật Tiên qua đời vào năm 1926, cho nên ông không dính dáng gì đến cuộc tranh chấp đã kéo dài gần ba thập niên giữa Ðảng Quốc Gia và Ðảng Cộng Sản. Vì cớ đó nên ông Tôn Dật, một chính trị gia hiện đại, và là một người Tin Lành, ngày nay vẫn được cả Ðảng Cộng Sản và Ðảng Quốc Gia, từ năm 1949 đã rút về Ðài Loan, kính nể.
Ngay cả khi Tôn Dật Tiên còn sống, nỗi căm hờn đã được nhiều người khơi động khi họ đồng hóa Cơ Ðốc Giáo với việc các cường quốc Tây Phương đã làm nhục Trung Quốc. Ðôi lúc sự tức giận này nổ bùng lên thành những cuộc biểu tình chống lại Cơ Ðốc Giáo. Phong trào Tân Văn Hóa là một phong trào của các nhà tri thức Trung Quốc nổi lên vào năm 1915. Phong trào này bày tỏ nỗi bất bình của nhiều người Trung Quốc về việc các định chế dân chủ không thể mọc rễ tại Trung Quốc sau khi nhà Thanh sụp đổ vào năm 1911. Các nhà tri thức như Chen Duxiu, bí thư đầu tiên của Ðảng Cộng Sản Trung Quốc lúc mới được thành lập vào năm 1921, là những người ưa chuộng khoa học, dân chủ và lý thuyết xã hội của Darwin, và họ muốn bãi bỏ tư tưởng Khổng Giáo là tư tưởng nền tảng của các triều đại.
Tư tưởng chính trị thái quá của Chen Duxiu được khích động bởi một phong trào mới xuất hiện. Phong trào Mùng Bốn Tháng Năm. Ðây là phong trào được đặt tên theo tên của một cuộc biểu tình của sinh viên tại Bắc Kinh vào ngày bốn tháng năm, 1919, (26) chống lại những qui định của hiệp ước Versailles áp chế Trung Quốc. Phong trào mới này với sự khích lệ của người Cộng Sản, đã góp phần vào các cuộc chống đối Cơ Ðốc Giáo của các nhà tri thức vào thập niên 1920. Biểu tình và đập phá các nhà của giáo sĩ cũng như tấn công giáo sĩ xảy ra thường xuyên, vào tạo nên một sự tranh chấp giữa Ðảng Cộng Sản Trung Quốc do Mao Trạch Ðông lãnh đạo và Ðảng Quốc Gia do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo.
Khi các người quốc gia chống lại người cộng sản vào năm 1927 và đẩy họ vào vùng quê, đưa họ vào cuộc chiến tranh du kích giải phóng. Một số tín hữu Cơ Ðốc nghĩ là sẽ có một khoảng thời gian để giúp cho Giáo Hội quốc gia thành hình. Các nhà truyền giáo thế kỷ thứ 20 như Tống Thượng Tiết (John Sung), Vương Minh Ðạo (Wang Mingdo), và Nghê Thác Thanh (Watchman Nee) đã góp phần lập nền tảng cho sự phát triển Tin Lành hiện đại. Họ bắt đầu trở nên các nhà lãnh đạo có uy tín khi phong trào chống Cơ Ðốc Giáo đạt đến đỉnh cao vào năm 1925. Năm sau đó, số giáo sĩ hoạt động tại Trung Quốc lên đến 8235 người, con số cao nhất từ trước đến nay.
Khi cuộc nội chiến hoành hành từ trong các thập niên 1920, 1930, các giáo sĩ Tây Phương tiếp tục hoạt động tại Trung Quốc song bị áp lực rất nhiều. Một số giáo sĩ bị Cộng Sản bắt và xử tử. Một số khác phải chịu khổ khi quân Nhật chiếm Trung Quốc vào năm 1937-1941. Sau biến cố Pearl Harbor, tất cả các giáo sĩ bị quản thúc (một trong số các giáo sĩ tại Trung Quốc chết trong trại quân quản thúc là Eric Liddell, người đóng vai chính trong cuốn phim được giải Oscar, Chariots of Fire.)
Tưởng Giới Thạch tuyên bố ông là người Tin Lành và nhận lễ Báp-têm vào năm 1930. Ðiều này làm cho ông trở thành một nhà lãnh đạo được nhiều người Mỹ ưa chuộng. Nhưng sau khi Nhật đầu hàng vào năm 1945, quân Cộng Sản mạnh mẽ tiến vào vùng quê Bắc Trung Quốc và đuổi đoàn quân được huấn luyện tốt hơn và nhiều vũ khí hơn của Quốc Dân Ðảng tức là Ðảng Quốc Gia ra khỏi vùng này. Cuộc nội chiến chấm dứt vào năm 1949 khi quân cộng sản tiêu diệt mọi chống đối bên trong Trung Quốc. Vào ngày 1 tháng 10 đứng tại Thiên An Môn tại Bắc Kinh, Mao Trạch Ðông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Hơn một năm sau, hàng chục ngàn giáo sĩ ngoại quốc, Tin Lành lẫn Công Giáo đều bị đuổi ra khỏi Trung Quốc một số bị tù và bị tẩy não trước khi bị đuổi. Ðiều này dẫn đến những tác phẩm hồi tưởng về Cộng Sản Trung Quốc đã được thực hiện vào thế kỷ thứ 20. (27)
Cuộc du nhập lần thứ ba của Cơ Ðốc Giáo vào Trung Quốc trong lịch sử lâu dài của quốc gia này bắt đầu với Morrison, và được các giáo sĩ thừa kế tiếp tục từ năm 1807, đã trùng hợp với thời kỳ bành trướng đẫm máu nhất vào Á Châu của các đế quốc Tây Âu. Tàu chiến đã gián tiếp đưa giáo sĩ đến những vùng xa xôi trong nội địa của Trung Quốc. Nhưng tiếng súng canh nông đã làm cho người Trung Quốc điếc tai không nghe được âm hưởng của Phúc Âm. Sử gia Wolfgang Franke đã bình luận về sự ra đi của các giáo sĩ vào năm 1949. Ông viết: “Các giáo sĩ Cơ Ðốc đã trả một giá rất cao cho các lỗi lầm của những người đi trước họ, và gặt hái kết quả là sự ghét bỏ mà các người đi trước đã gieo.” (28)
Khi các giáo sĩ rời Trung Quốc vào năm 1949, số tín hữu Cơ Ðốc tại Trung Quốc gồm 3 triệu tín đồ Công Giáo và 750 ngàn tín đồ Tin Lành. Nhiều người đặc biệt là Vương Minh Ðạo, Nghê Thác Thanh và các người khác đã kiên nhẫn tiếp tục công tác truyền giáo, đặc biệt là giữa đám dân thành thị sợ sệt. Khi người Cộng Sản dần dần kiểm soát chặt chẽ được đời sống dân chúng, đối với một số Cơ Ðốc Nhân Trung Quốc, và đặt biệt là đối với một người quan sát ngoại quốc, dường như Cơ Ðốc Giáo sẽ biến mất một lần thứ ba nữa tại Trung Quốc khi quốc gia này nằm dưới sự kiểm soát của những người lãnh đạo mới. Ý tưởng này tỏ ra sai lầm, song cần nhiều năm để được sáng tỏ.
Chú Thích
(1) Trong các bản dịch khác, họ đang đào mả
(2) Một giáo sĩ Mỹ gốc Assyrian tại Nhật, Ken Joseph Jr., thăm cộng động của ông ở Iraq trước khi Mỹ xâm chiếm Iraq vào năm 2003. Ông xác nhận với nhà truyền hình Fox khi ông được phỏng vấn tại Jordan là khởi đầu ông chống chiến tranh, song ông thay đổi ý kiến sau khi ông gặp các tín hữu Assyrian, họ cho ông biết là họ muốn quân Mỹ đến giải phóng nước họ khỏi sự thống trị của Saddam Hussein.
(3) Martin Palmer, The Jesus Sutras. Rediscovering the Lost Scrolls of Taoist Christianity. Kinh của Jesus. Khám Phá các Bản Văn Chịu Ảnh Hưởng của Lão Giáo của Cơ Ðốc Giáo (New York: Ballantine Wellspring, 2001), 225. Ðây là cuốn sách tốt nhất nói về bia đá Nestorian và sự hiện diện của hệ phái Nestorian tại Trung Quốc. Palmer đặt biệt chú tâm một số bài viết của các người Cơ Ðốc Nestorian được khám phá tại các nơi khác ở Trung Quốc trong thế kỷ qua. Các bài này cho thấy Cơ Ðốc Giáo rất gần với các ý tưởng của Phật Giáo và Lão Giáo.
(4) Như trên,
(5) Như trên, 226
(6) Như trên, 220
(7) Như trên, 236
(8) Như trên, 18
(9) Christopher Dawson, ed. Mission to Asia: Narratives and Letters of the Franciscan Missionaries in Mongolia and China in the Thirteen and Fourteenth Centuries. Truyền Giáo tại Á Châu. Mô tả và Thư Từ của các Giáo Sĩ Franciscan tại Mông Cổ và Trung Quốc vào thế kỷ thứ 13 và 14. (New York: Harper and Row, 1966), 86.
(10) Samuel Hugh Moffett, A History of Christianity in Asia. Lịch Sử Cơ Ðốc Giáo tại Á Châu. Vulume 1: Beginning to 1500 (New York: Orbis Book, 1998), Footnote, 420.
(11) Như trên, 445-446
(12) Ðôi lúc đánh vần là Chuanzhou, và có tên Zaitun trong các sách lịch sử trong thời gian này.
(13) Gavin Menzies, 1421 –The Year Chine Discovered the World – 1421 Năm Trung Quốc Khám Phá Thế Giới. (London: Transworld Publishers,2002)
(14) Nếu so sánh với chiếc tầu Santa Maria, chiếc tầu của Bồ Ðào Nha chở Columbus vượt Ðại Tây Dương 60 năm sau chuyến đi cuối cùng của Zheng He, chiếc tầu đó chỉ dài 92 thước Anh. Ngay cả 300 năm sau, các tàu của chiếc thuyền Anh Quốc dưới sự chỉ đạo của Lord Nelson đã đánh bại quân Pháp trong trận Trafalgar vào năm 1805, tàu Victory, một chiến thuyền với hơn 100 đại bác và hơn 800 thủy thủ, chỉ dài có 186 thước Anh.
(15) Sử gia của Ðại Học Yale, Jonathan Spence, đã viết một sách lý thú về các khía cạnh khác về đời sống của Ricci tại Trung Quốc. Xem Jonathan Spence, The Memory Palace of Matteo Ricci. Hồi Ký Trong Triều Ðình Vua của Matteo Ricci. (New York: Penguin Book, 1984).
(16) Trưng dẫn trong sách của Wolfgan Franke, China and The West: The Cultural Encounter, 13th to 20th Centuries. Trung Quốc và Tây Phương: Ðối Ðầu Văn Hóa, Thế Kỷ Thứ 13 Ðến Thế Kỷ Thứ 20. (New York: Harper Torch Book, 1967),39
(17) Như trên, 55
(18) Bản dịch do Charlene Fu and Chan Kei Thong. Bài thơ được dịch như sau. (Bản dịch tiếng Anh do Fu và Thong thực hiện.
“Của Báu Trong Đời”
Của báu của trời là mặt trời, mặt trăng và các sao.
Của báu trên đất là lúa thóc, vàng bạc
Của báu của vương quốc là công thần trong sạch
Của báu của gia đình là con cái hiếu thảo
Vàng và ngọc thật lả của báu,
chỉ một đời sống bình thản là của báu,
sống đến một trăm năm chỉ là bước qua ba vạn sáu nghìn ngày.
Ðời không mụch đích là đời sầu tư.
Chúng ta vào đời lầm lẫn, chúng rời đời, chết.
Một đời sống trống rỗng là một giấc mơ vô nghĩa.
Miệng tôi đã nếm hương vị tốt nhất trong hàng trăm hương vị,
tôi chỉ mặt quần áo cung đình, khách của tôi là người trọng nhất thế giới,
vậy tại sao tôi là Hoàng Ðế.
Biến cố quan trọng nhất trên đời là sống chết,
Vàng, ngọc chỉ là hư không,
chỉ cơm không, cháo trắng cũng đã làm tôi thỏa lòng.
Quần áo cao sang cũng không tồn tại một ngàn năm được.
Cửa trời đã đóng lại lâu rồi vì con người đầu tiên.
Con trai thánh đã mở đường phước hạnh.
Tôi sẵn sàng đón tiếp con Trai Thánh của Ðức Chúa Trời.
Ðể nhận lãnh quyền của người con đi vào sự sống đời đời.
(19) Franke, China and the West, 57
(20) Trích bởi A.J. Broomhall, Hudson Taylor and China’s Open Century: Barbarians at the Gate. Hudson Taylor và Thế Kỷ Mở Cửa Trung Quốc: Dân Man Rợ Ðang Chờ Tại Cổng. (London: Hodder and Stoughton, 1981),119.
(21) Stephen Neill, a History of Christian Missions. Lịch sử Truyền Giáo Cơ Ðốc (London: Penguin Book, 1986) 244
(22) Trưng dẫn bởi các editors của báo Christian History Magazine, 131 Christians Everyone Should Know – 131 Cơ Ðốc Nhân mà Ai Cũng Phải Biết. (Nashville: Broadman & Holman, 2000), 253
(23) Broomhall, Hudson Taylor and the China’s Open Century, 28
(24) Dịch ra tiếng Hoa, wanguo gongbao
(25) “Ðiều gì đã cản trở tôi trở thành Cơ Ðốc nhân,” Overseas Campus Magazine, August 1995, 32. Bảng tóm lược được ghi tại www.intervarsity.org/ism/article/168 (trích dẫn July 2006.
(26) Bởi ngẫu nhiên lịch sử, biến cố 4 tháng 5 xảy ra đúng 51 năm trước biến cố bắn chết 4 sinh viên Mỹ biểu tình tại Kent State University vào năm 1970.
(27) Rất ấn tượng và ảnh hưởng đã được ghi lại trong bộ sách 3 cuốn của giáo sĩ người Anh, Geoffrey Bull, When Iron Gates Yield. Khi Cổng Sắt Mở Ra. (London: Hodder & Stoughton, 1956), God Holds the Key – Ðức Chúa Trời Cầm Chìa Khóa (London: Hodder & Stoughton, 1954), The Sky is Red – Bầu Trời Ðỏ Rực (London: Hodder &Stoughton, 1955).
(28) Franke, China and the West, 138.
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.
Comments (1)