Tái Sanh – Chương 5.a
Chương 5: Colson Bị Tuyên Án – Hành Trình Theo Chúa Đầy Gian Nan
Tổng Thống Nixon sợ những tiết lộ của Colson về vấn đề tin Chúa Giê-xu có thể làm hại đến mình cho nên mời Colson vào Tòa Bạch Ốc nói chuyện. Colson trấn an ông và nhận thấy Nixon xuống tin thần một cách tột độ, nghi ngờ ngay chính nhân viên của mình và thường sợ có người thâu băng mình. Trong cuộc điện đàm tối hôm đó, Nixon tỏ ý muốn từ chức vì không chấp nhận việc truy tố một Tổng Thống nhưng lại e ngại Jerry Ford (đương kim Phó Tổng Thống) chưa sẵn sàng và nhất là không trị Kissinger được.
Colson giúp Tổng Thống Nixon giải quyết vấn đề truy tố và nhường luật sư của mình là Jim St. Clair cho Nixon để đứng ra biện hộ cho ông. Trong khi đó, tình hình tại Tòa Bạch Ốc ngày càng rối loạn. Tị hiềm cá nhân nổi lên khắp nơi. Nhiều nhân viên từ chức vì sợ bị điều tra về Watergate. Không khí bi quan, dãy chết như bao trùm.
Nhóm cầu nguyện của Colson cùng một số người chống Nixon trước đây thường cầu nguyện cho ông. Khoảng đầu năm 1974 tại Washington, nhiều phép lạ xảy ra. Những người trước đây kình chống giờ trở thành anh em. Nhóm cầu nguyện mọc lên như nấm, tại Thượng Viện, Hạ Viện, Tòa Án, Ngũ Giác Ðài, các bộ Chính Phủ đến nỗi phóng viên Nick Thimmesch gọi đó là “một phong trào trong bóng tối nẩy mầm từ Watergate”. Dư luận nhìn việc này với con mắt nghi ngờ, giễu cợt, nhất là đối với việc tin nhận Chúa Giê-xu của Colson.
Trong khi đó, Bud Krogh, viên phụ tá cho John Ehrichman, là người của Nixon bị tù trước nhất. Anh ta tình nguyện nhận tội đã ra lệnh đột nhập vào văn phòng của viên bác sĩ tâm lý và lãnh bản án sáu tháng tù. Công Tố Viên Ðặc Biệt Leon Jaworski cho biết Colson ngoài tội như trên, còn có thể bị định tội bưng bít vụ Watergate. Ông đề nghị Colson nên nhận tội nhẹ hơn (ra lịnh đột nhập) để khỏi xét về tội kia. Như thế, ông chỉ bị tù chừng một năm thay vì ba năm và có thể hành nghề luật sư trở lại sau khi mãn tù. Tuy nhiên, làm như thế Colson phải thú một tội mà ông chẳng bao giờ phạm cả bởi ông không dính líu gì về vụ đột nhập trên. Ông bối rối trước đề nghị trên. Sau khi hội ý với Thượng Nghị Sĩ Harold Hughes cũng như dò phản ứng của gia đình, Colson quyết định từ chối đề nghị ấy.
Dư luận tiếp tục nghi ngờ lòng tin Chúa Giê-xu của Colson. Họ cho rằng Colson không thể có điều thiện trong lòng khi còn cố chấp che giấu những tội ác mình. Vì thế, việc tin Chúa Giê-xu của ông chẳng qua chỉ là một trò giả tạo nhằm lấy lòng thương hại của kẻ khác. Colson cảm thấy càng cố gắng biện hộ cho cuộc đời quá khứ của mình bao nhiêu, ông càng khó sống toàn vẹn cuộc đời đầy tự do của một tín đồ Tin Lành bấy nhiêu.
Sáng 1/3/1974, Ủy Ban Ðiều Tra công bố danh sách những người sẽ bị truy tố trong vụ Watergate. Colson bị hai tội: bưng bít về vụ Watergate và đột nhập vào văn phòng bác sĩ.
Trước phiên tòa tại Tòa Án Liên Bang ngày 9/3/1974, những lời nói: “Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này tố cáo John Mitchell. . . Charles W. Colson. . . rằng. . . ” đã làm lòng ông quặn thắt lại. Lần đầu tiên trong đời, ông cảm nhận được sự bất lực cá nhân trước những quyền lực bao la của quốc gia. . .
***
Sáng thứ hai hôm sau, khi lái xe đến tòa nhà Thông Công dự buổi nhóm hàng tuần thường lệ, những lời tố cáo vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Những bài báo trên toàn thế giới ngày Chúa Nhật làm tôi càng thêm đau lòng.
Doug Coe chào tôi với ánh mắt đầy nét vui tươi như mọi ngày. “Tốt lắm, Chuck, hãy nhìn sự việc bằng cách nầy. Báo chí đăng tải về một tín đồ Tin Lành”.
Tôi cười gượng gạo như mếu. Tôi hỏi bốn người anh em câu hỏi khiến tôi hết sức bối rối trong dịp cuối tuần vừa qua: “Qua việc truy tố nầy, các anh thấy tôi nên rút lui khỏi nhóm thông công không? Hai người trong các anh hiện đang nằm trong chính quyền, tôi ngại sự có mặt của tôi có hại cho các anh. . . ”
Al Quie nói ngay, “Chúng ta là anh em. Nếu anh bị truy tố, hết thảy chúng tôi cũng vậy. Chúng ta sống chết có nhau. Chỉ có một cách đó mà thôi”.
Harold Hughes gật đầu biểu đồng tình. Ðối với hai người nầy, việc nầy có thể họ sẽ phải trả một cái giá rất đắt. Mặc Harold sắp rời chính trường, nhưng đối với đại đa số quần chúng Hoa Kỳ, anh là “người sạch”. Còn Al, một Thượng Nghị Sĩ Ðảng Cộng Hòa, sắp tranh cử trở lại vào mùa thu sắp đến trong một tiểu bang của Ðảng Dân Chủ với mọi dấu hiệu cho thấy Ðảng Dân Chủ đang thắng xa. Mặc dầu công việc luật sư của Graham Purcell có thể bị ảnh hưởng không tốt, nhưng chính anh lại là người chống đối dữ dội nhất đề nghị của tôi. Anh nói qua giọng Texas độc đáo của anh, “Anh không chạy đâu cho khỏi”.
Sau buổi thảo luận và cầu nguyện, nỗi tuyệt vọng của hôm qua lại một lần nữa tan biến khi tôi tìm được sức mạnh từ Chúa. Sáng hôm đó đến sở, tôi cảm thấy trong lòng bình an lạ thường: Dave Shapiro nhìn tôi qua đôi mắt thiếu ngủ của anh rồi lắc đầu ngạc nhiên. “Anh làm gì hay quá vậy? Nói thật với anh, đây là những ngày cuối tuần thê thảm nhất của đời tôi. Anh coi, hại tôi bị truy, một thân chủ sắp bị xử, mọi người ai cũng muốn lóc thịt anh mà anh tỉnh bơ, giống như vừa mới đi nghỉ xa về”.
Tôi sẵn sàng ngay, “Nếu anh muốn tôi giải thích hả, chúng ta phải bắt đầu từ hai ngàn năm về trước. Ðó chính là lúc anh bỏ mất cơ hội đấy”.
Dave nghiêm mặt, “Thôi hãy bắt tay vào việc, tôi sẽ cứu anh ra khỏi vũ bão này. Những cáo trạng đó thật là vô duyên hết sức”.
Phấn khởi bởi buổi cầu nguyện sáng sớm và những lời nói đầy tự tin của Dave, tôi hăng hái lao đầu vào trận chiến dai dẳng trước mắt. Trước tiên tôi rút tên ra khỏi công ty. Văn phòng luật sư này đổi tên là DICKSTEIN, SHAPRIO, AND MORIN, mặc dầu Holly và tôi vẫn giữ phòng làm việc tại đó. Ðoạn tôi giải thích cho mọi thân chủ của tôi rằng từ nay họ không còn liên hệ gì với tôi nữa. Lời nói của thư ký kiêm thủ quỹ của Teamsters Union, Dusty Miller, giống như lời của Al Quie khiến tôi ngạc nhiên “Trong phòng trào lao động, chúng ta là anh em. Anh bị truy tố thì tôi cũng bị truy tố. Nó giản dị như thế”. Brainerd Holmes và Tom Phillips của hãng Raytheon cũng ngõ lời ủng hộ. “Chúng tôi sẽ tiếp tục liên hệ với những luật sư khác trong hãng anh cho đến ngày anh trở lại. Ngày ấy không xa đâu”. Không một thân chủ nào chịu qua công ty luật sự khác cả.
Bởi Jim St Clair cũng như hầu hết những luật sư giỏi về hình tội đều bận rộn cho những bị cáo của Watergate, Dave Shaprio quyết định đứng ra biện hộ cho tôi với sự phụ tá của Dickstein và một luật sư trẻ xuất sắc Ken Adams. Chúng tôi được Luật Sư Ðoàn chấp thuận việc này bởi nay tôi đã ra khỏi công ty luật sư ấy.
***
Trong khi đó, tại Tòa Bạch Ốc Tổng Thống tuyên bố trên hệ thống truyền hình toàn quốc về tập tài liệu mới vừa được tung ra. Ðây là những tập tài liệu ghi lại bốn mươi bảy mẩu đối thoại tại Tòa Bạch Ốc bị thâu băng. Nixon trấn an dư luận toàn quốc, “Những tập tài liệu nầy sẽ minh chứng cho toàn thể quốc dân một lần cuối cùng về những gì tôi biết và những gì tôi làm đối với vụ Watergate. Những điều nầy không khác với những gì tôi đã trình bày cùng quý vị ngay từ lúc ban đầu”.
Ông nói bằng một giọng tin tưởng khiến tôi có cảm nghĩ như đây là một đoàn tiêu biểu lợi hại của Nixon, cũng như hồi tháng Giêng năm 1972 ông tiết lộ bí mật những mật đàm về Việt Nam khiến mọi người bàng hoàng, kinh ngạc. Tôi tự nghĩ, thì ra đây chính là bằng chứng rằng ông không dính líu đến vụ Watergate mà từ lâu ông ta chưa tung ra. Khi nhìn con người “cũ” của Nixon, lòng tôi rộn rã, lạc quan lạ lùng. Nhưng tại sao ông ta lại chần chừ lâu như thế?
Holly lấy một bản của những tập tài liệu này ngay sáng hôm sau. Khi tôi đọc lướt qua tập tài liệu dầy màu xanh này, Dave tò mò đến sau lưng tôi cùng đọc. Những dòng chữ nhảy múa trước mắt tôi cùng với những tiếng trầm trồ của Dave làm lòng tôi như quặn lại. “Không thể nào tưởng tượng được”, tôi thốt lên khi thấy nhiều trang với dòng chữ đục bỏ khiến người đọc không khỏi coi Nixon là một vị Tổng Thống bất kính, không đáng trọng nhất trong lịch sử.
Tôi nói với Dave, “thế là ông ấy chết rồi”.
Dave phụ họa theo, “Chắc chắn rồi. Ðó anh thấy chưa, ngay cả sự cộng sự thân tín như anh, ông ta còn dối trá nữa mà”.
Càng đọc thêm, tôi càng bị tổn thương dày xéo bởi cảm giác bị phản bội. Tôi bỗng nhớ lại một câu nói của Bob Haldeman vào khoảng cuối mùa vận động bầu cử năm 1972: “Richard Nixon sẽ dùng bất cứ ai. Anh nhớ nhé. Khi ông ta không cần anh, ông ta sẽ bỏ anh ra một xó”.
Lúc ấy, tôi nhún vai cho rằng đó chỉ là những lời nói qua loa cua Haldeman về cách dùng người của Tổng Thống. Vả lại, tôi tự nhủ, nếu bị bỏ rơi, âu cũng là cái giá ta phải trả khi được phụng sự cho một người với lý tưởng thật cao đẹp. Tuy nghĩ như thế nhưng lúc ấy tính tự phụ trong lòng khiến tôi nghĩ ai chứ tôi thì không ở trong trường hợp đó đâu.
Giờ đây trước tập tài liệu nầy, những lời nói của Halddeman bỗng trở thành sự thật. Ðôi mắt của Dave như đâm thủng tôi. Không còn thời giờ nào để giận hờn hay cay đắng. Tôi nói, “Dave, Nixon cbỉ còn cách từ chức. Ra đi một cách danh dự. Tôi phải nói với ông ấy”.
Dave khuyên tôi không nên điện thoại, sợ những công tố viên có thể lợi dụng. Anh ta nhờ Jim St. Clair (luật sư biện hộ cho Nixon) nhắn lại. Jim gạt phăng đề nghị trên, cho rằng những tập tài liệu nầy giúp biện hộ cho Nixon dễ dàng nhơn trên phương diện pháp lý. Tuy nhiên, chính dư luận quần chúng, chứ không phải những lý luận, biện hộ về pháp lý, hiện đang điều khiển mọi biến chuyển của quốc gia. Bồi thẩm đoàn sẽ xử vấn đề nầy trên căn bản đạo đức, và chính Nixon đã tự kết lấy bản án do mình qua những tập tài liệu.
Ngoài những chữ “đục bỏ”, tập tài liệu còn lột trần cho quần chúng thấy bề mặt trái của Rechard Nixon, một con người thiếu quyết định, dễ bị lung lay và nông cạn. Ðây không phải là Nixon mà tôi hằng biết qua những quyết định can đảm trong nổ lực chấm dứt chiến tranh Việt Nam, qua những lời nói thông hiểu và nhạy cảm đối với ước vọng của dân chúng, và qua con người lý tưởng của ông với những ước mơ vĩ đại cho Hoa Kỳ và cả thế giới.
Trong chốc lát, tôi bỗng thấy những lời nói trong tập tài liệu đánh tan những nghi ngờ của tôi trước đây. Trong băng không ghi lại những buổi gặp gỡ trong đó tôi kêu gọi Tổng Thống đưa ra ánh sáng cho mọi người thấy những ai dính líu vào những lời ông nói với tôi rằng ông không biết những người dính líu là ai. Bây giờ, đọc qua những tập tài liệu này, tôi mới biết ông còn dấu tôi nhiều điều. Trong lúc tôi đề nghị đưa mọi việc ra ánh sáng, ông lại ra lệnh Mitchell. Haldeman và Dean cản trở những nhân viên điều tra.
Càng đọc tôi càng cảm thấy buồn. Nixon đã nói láo với tôi, việc ông không tỏ những đức tính đáng khâm phục của ông khiến tôi thất vọng nhiều, thế nhưng tôi vẫn còn quan tâm rằng vô tình tôi đã dự phần vào việc tạo nên một Tòa Bạch Ốc xấu xa hiện đang đứng trước mặt quần chúng.
Vấn đề không phải là những việc làm có tính cách “dã man”. Ðó chỉ là cách mà chúng tôi, những người cộng sự tỏ cho Nixon thấy rằng chúng tôi đủ cứng để đứng đầu gió. Nhưng vấn đề thật sự là sự băng hoại đạo đức xảy ra ngay trong một cơ cấu đáng lẻ phải có, nếu không phải là sự cao đẹp thì ít ra là những mục đích chính đáng. Những lời nói cao đẹp và lôi cuốn của Washington, Lincoln và Jefferson, các vị tiền nhân của chúng tôi, cho thấy những mẫu đối thoại của chúng tôi ngày nay giả dối và dơ bẩn. Ðương nhiên, vị Tổng Thống nào cũng có những khía cạnh riêng quần chúng ít biết đến. Chẳng hạn Eisehower có những hành động khó kính trọng, Truman chanh chua, những vị khác có những điểm yếu về đạo đức. Vâng, nhưng quần chúng không muốn biết đến những điều nầy bởi mọi người chỉ muốn biết về bề mặt tốt nhất của những vị lãnh đạo mà thôi.
Vì thế, giờ đây sự phũ phàng đến với tôi như cơn sét. Như những người khác, có thể tôi cũng có những ý nghĩ không tốt về Tổng Thống, nhưng tập tài liệu nầy còn cho thấy nhiều điều hơn thế nữa. Sự thật đau đớn ấy làm cho lòng tôi bàng hoàng, tê tái như khi nghe câu nói: “Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nay tố cáo Charles Colson”. Hai biến có đến dồn dập cùng một lúc.
Như nước vỡ bờ, việc những tập tài liệu nầy tung ra là mở màn cho hàng trăm bài báo, phóng sự truyền hình, và những manh mối mới cho những Công Tố Viên. Những người ủng hộ cho Nixon phải ngượng ngùng, còn những người chống ông nay có thêm khí giới. Hughes Scott, lãnh tụ Ðảng Cộng Hòa tại Thượng Viện cho rằng những tập tài liệu nầy “mờ ám”. Lãnh tụ của hại đảng tại Hạ Nghị Viện yêu cầu Tổng Thống từ chức. Phó Tổng Thống Gerald Ford tuyên bố rằng những tập tài liệu nầy sẽ minh chứng cho Nixon không có tội, nhưng sau những tiếng phản đối trong nghị trưởng, ông cho rằng “tình hình khá trầm trọng”. Ngày 4/5/1974 Ủy Ban Tư Pháp Hạ Nghị Viện bắt đầu những buổi họp lập thủ tụ chính thức truy tố Tổng Thống. LaØn sóng định tội tuôn trào như chim vỡ tổ.
Trong lúc những đều tra về Watergate gia tăng cường độ, tôi nhận thấy một ý hướng mới đang hiển hiện trong những bức thư gửi đến. Mặc dầu những lời lẽ vẫn còn êm dịu và khích lệ, nhưng càng lúc càng có thêm lời kêu gọi tôi phải thi hành nhiệm vụ của một tín đồ. Lá thư của tiến sĩ Verson Grose, một người bạn thân hoạt động tích cực cho Ðảng Cộng Hòa, như gói ghém cả câu chuyện: “Hãy chính trực và hết sức thành thật trong mọi phiên tòa, mọi điều trần về Watergate và những cáo trạng liên hệ”.
Một lần nữa, tôi phải đối phó với một vấn đề khó xử đã làm tôi từng khổ sở kể từ ngày tôi tin Chúa Giê-xu – đó là vẫn còn muốn sống trong hai thế giới. Là một tín đồ, tôi tha thiết muốn nói hết tất cả mọi việc; nhưng những luật sư của tôi – tượng trưng cho sự khôn ngoan của thế gian – lại bảo tôi phải giữ yên lặng. Họ bảo sự tự do của tôi như chỉ mành treo chuông, những gì tôi muốn nói cần phải để dành cho phiên tòa sắp tới và ngay cả lúc đó, tôi chỉ nói những gì giúp tôi trắng án mà thôi. Kẹt hơn nữa là những biện hộ của tôi tại tòa án chỉ liên quan đến sự sống của tôi trước khi Chúa Giê-xu Christ bước vào. Con người cũ của Colson bị xét xử và thấy có nhiều điều trong đời sống cũ tôi chẳng muốn bào chữa, biện hộ chút nào. Nhưng làm sao để phân cách giữa đời sống cũ và mới? Làm sao để sống trong hai thế giới?
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.