Tái Sanh – Chương 5.c
Dave kể lại cho tôi rằng Bill Merrill cũng kinh ngạc không kém Dave về quyết định của tôi. Ðối với những công tố viên chuẩn bị cho phiên tòa, việc một bị cáo chấp nhận tội là một chiều hướng tốt, giúp giản dị hóa công việc đối với những bị cáo kia, nhất là John Ehrlichman. Hai người lập tức liên lạc bằng điện thoại với Thẩm Phán Gesell, hiện đang nghỉ phép một tuần tại nhà nghỉ mát của ông ở Maine. Viên Thẩm Phán chưa muốn có quyết định rõ rệt qua điện thoại.
Ông ta lưu ý, “Ông Shapiro hiểu chứ, nếu tôi nhận lời thú tội nầy, chính sách của tội từ nào đến giờ là đối với nhân viên cao cấp của chính phủ, hình phạt là ở tù”.
Dave trả lời, “Thưa Ngài, tôi hiểu và chính ông Colson cũng thế”.
Viên Thẩm Phán tiếp tục, “Không có dàn xếp đặc biệt gì ở đây cả, và cũng không thể thỏa thuận trước về hình phạt, ông hiểu chứ. Ông và ông Colson tự nguyện làm những điều đó và đối với tôi trong vấn để xử phạt, tôi sẽ không bị ràng buộc gì”.
Lời nói của Thấm Phám Gesell khiến tôi sờ sợ. Bud Krogh, người thú nhận đã ra lệnh đột nhập vào phòng bác sĩ, đã bị án phạt sáu tháng tù. Tội mà tôi sẽ thú nhận là một tội nhẹ hơn và hình phạt dĩ nhiên cũng phải nhẹ hơn. Nhưng tôi là cái đích cao hơn và là một nhân vật lý tưởng để xử làm gương cho quần chúng. Sau khi bù qua sớt lại, chúng tôi nghĩ hình phạt sáu tháng tù dành cho tôi có lẽ hợp lý hơn cả. Tuy nhiên, lời nói của viên Thẩm Phán vẫn nghe sờ sợ. Cũng có thể năm năm tù lắm.
Qua điện thoại, Thẩm Phán Gesell cũng có lưu ý Dave Shapiro và Bill Merrill rằng ông cần phải nắm chắc tôi mà tôi sẽ nhận là một tội thật sự. Ðây là sẽ một tiền lệ quan trọng. Thật trớ trêu, Dave phải bắt đầu ngay công tác tìm tòi những dữ kiện, những lý luận để chứng minh cho viên Thẩm Phán rằng thân chủ của mình thật sự có tội. Gesell phải đợi tuần tới trở về Washington mới có thể quyết định về việc này.
Một đêm thứ tư nọ, Patty nói, “Anh ơi, liệu anh có bị tù không?”
Tôi trả lời, “Anh e phải vậy. Nhưng không lâu đâu, có lẽ chừng vài tháng như Bud. Hai tuần nữa là anh ấy được thả. Bốn tháng rưỡi đi qua nhanh như không có gì cả”.
Nhưng chúng tôi sợ không những thời gian tù tội mà còn sự nguy hiểm ở trong tù nữa. Lời báo cáo của những người bạn của Bud có vẻ trấn an một phần nào. Họ cho hay Bud đang thích nghi với kết quả tốt, đang làm việc (lái xe cho máy cày) siêng năng tại trại giam Allenwood. Chúng tôi biết chưa có ai đe dọa đến tính mạng của anh cả. Howard Hunt thì gặp khó khăn hơn một chút, họ bị tấn công tại phòng giam vào ban đêm ở một trại tù của Washington, sau đó đau một trận liệt giường vì phải xúc phân ngựa dưới không độ tại nông trại của trại giam Allerwood. Báo chí đăng tải thường xuyên về những vụ hiếp dâm đồng tình luyến ái tại trại giam ở Washington.
“Chuck, em sợ quá. Em không biết là cò chịu đựng được không?” nước mắt nàng đã long lanh trên khóe mắt, tay nàng nắm chặt lấy tay tôi. Tính tình Patty rất mạnh, cứng ở trong lòng, một lý do tôi yêu nàng tha thiết, nhưng chúng tôi đã quá gần nhau và lệ thuộc vào nhau. Trước đây, tôi không bao giờ dám để nàng một mình ở nhà, chung quanh chỉ là cây cối và xa hàng xóm. Mỗi lần đi xa, Holly về ở chung với nàng. Những cuộc điện thoại mỗi đêm giúp chúng tôi gần nhau và không bao giờ tôi đi xa những chuyến lâu ngày không có nàng bên cạnh. Trong suốt mười năm lấy nhau, chúng tôi chưa bao giờ xa nhau hai ngày liền. Mặc dầu nàng có tính tình cởi mở, vui vẻ và cố gắng đối phó với một khó khăn, tôi bỗng chợt hiểu nàng thật sự sợ hãi.
“Em, hãy cầu nguyện về điều đó, hãy cầu xin Ðức Chúa Trời gìn giữ chúng ta và giúp chúng ta đối phó với mọi điều sắp đến”.
Dưới con mắt của Patty, trước đây Chúa Giê-xu là một mối đe dọa cho sự liên hệ giữa chúng tôi, thì nay Ngài là Ðấng cho chúng tôi có sức mạnh. Những tháng trời học Kinh Thánh đã giúp cho nàng nhiều. Nàng bắt đầu yêu thích những người trong lớp học và gia đình của họ. Tôi không muốn nàng phải cầu nguyện lớn tiếng với tôi tối hôm đó vì ngại ép nàng làm những điều chưa sẵn sàng. Chúng tôi cùng thầm cầu nguyện. Sau đó, chúng tôi bàn về những vấn đề quan trọng – ai sẽ về ở với nàng, ai coi sóc nhà cửa, làm sao để nói cho các con hiểu – tất cả điều nầy dựa trên giả thuyết rằng Thẩm Phán Gesell chấp nhận lời nhận tội của tôi.
Chúng tôi bàn với nhau cả tuần, cứ mong có một phép lạ đến giải cứu chúng tôi. Patty thường kết luận mỗi đêm. “Bàn cho nhiều cũng không xảy ra đâu”.
Ðến thứ bảy thủ tục giấy tờ với những công tố viên cũng chưa xong. Một vài phụ tá của Jaworski muốn tôi đưa trước bản điều trần của tôi. Chúng tôi yêu cầu mọi điều trần công khai cần hoãn lại cho tới sau phiên tòa, ngoại trừ một tờ khai ghi lại những gì tôi đã khai trước đây. Chúng tôi không muốn làm gì trước phiên tòa mà người khác có thể nghĩ là cầu cạnh sự khoan hồng của phiên tòa.
Sau khi được thông báo cho biết chúng tôi đã thoả mãn đòi hỏi của những công tố viên, Thẩm Phán Gesell hẹn Dave Shapiro và Bill Merrill tại văn phòng của ông ta vào lúc 8 giò 30 sáng thứ hai. Nếu mọi việc ổn thỏa, vào 9 giờ 30 sáng ông sẽ chấp nhận lời nhận tội của tôi tại một phiên tòa công khai.
Tôi còn hai việc quan trọng chưa giải quyết – thứ nhất là gặp gỡ mặt đối mặt với Bill Merrill. Dave dàn xếp cho chúng tôi gặp nhau tại phòng anh vào chiều thứ bảy kế đó. Merrill đến lúc 3 giờ chiều, niềm nở đưa tay bắt. “Chuck, tôi cảm phục những hành động của anh”. Anh ta không cười, mà chỉ thấy buồn rười rượi qua đôi mắt. Tôi nghĩ thầm, kẻ chiến thắng có thừa khả năng độ lượng khoan dung với người ngã ngựa,nhưng nhận ra ngay câu nói chứa đựng sự thông cảm sâu xa hơn như thế.
Tôi nói, “Tôi muốn gặp anh mặt đối mặt, Bill, để tránh sự hiểu lầm về sau. Tôi không điều trần để đổi chác gì đâu. Tôi chỉ muốn nói sự thật”.
“Chúng tôi cũng nghĩ như thế. Cúng tôi không đòi hỏi anh thêm điều gì cả”.
Tôi vụng về, ngượng ngập nói ra một ý nghĩa chợt thoáng. “Khi nào việc này xong, mong các anh cố gắng sửa đổi cả guồng máy, chớ không phải con người. Có nhiều sự lạm dụng quyền hành trong tổ chứ CIA, trong Cơ Quan Cảnh Sát Liên Bang và cả tòa án cũng như Tòa Bạch Ốc. Còn nhiều việc quét sạch phải làm để quốc gia có cơ hội phát triển, tiến bộ”.
Merrill trả lời bằng một giọng chứa đầy tình cảm. “Tôi hiểu anh muốn nói gì, Chuck. Anh nghĩ là chúng tôi chỉ muốn hạ anh và Nixon chứ gì. Tôi không trách anh được, nhưng tôi mong anh hiểu cho là một số chúng tôi làm những việc này là chúng tôi muốn cho guồng máy tốt đẹp hơn, sửa sai những lầm lỗi. Chúng tôi sẽ tiếp tục làm những điều đó, và những gì anh anh sẽ làm giúp cho công việc của chúng tôi được dễ hơn nhiều”.
Trong suốt nửa giờ theo đó, những vết thương đa đớn trong quá khứ nay được hàn gắn lại. Sự đeo đuổi điều tra và những kỹ thuật Merrill dùng đã làm tôi cay đắng, nhưng sau khi chúng tôi nói chuyện với nhau sự tức giận như tan biến đi. Chẳng qua anh ta chỉ là một con người phải làm một việc không mấy ai thích, nhưng anh ta đã quan tâm đến những người bị luật pháp trừøng trị cũng như những người mà luật pháp gọi anh bảo vệ. Tôi khám phá ra rằng Chúa Giê-xu đã giúp tôi thấy được phía sau những sự cay đắng đó còn có những nguồn an ủi, thông cảm cho tâm hồn.
Vấn đề thứ hai cũng là vấn đề quan trọng nhất đó là nói cho hết thảy bốn anh em chúng tôi về quyết định của tôi. Chúng tôi hẹn gặp nhau tại nhà tôi vào đêm Chúa Nhật – mọi người đều có mặt ngoại trừ Al Quie phải diễn giảng ở Pennsylvania không về kịp vì cơn bão tại Washington trưa hôm đó.
Graham, Doug, Harold, và tôi tụ họp trong phòng làm việc của tôi quanh chiếc bàn tròn có hình dáng tay lái của chiếc thuyền. Càng nhớ lại những lời cầu nguyện không thôi của anh em và lòng hăng hái của những ngườii bạn của Doug tự nguyện giúp tôi thoát khỏi sự tù tội, tôi càng khó mở miệng nói ra câu này, “Tôi đã quyết định như thế này, nếu Thẩm Phán Gesell cho phép và các anh đều đồng ý, tôi sẽ nhận tội tại án vào ngày mai”.
Graham đang ngồi nhìn những bức tranh trên tường từ nãy giờ, bỗng giật mình quay lại, “Sao? Anh nói gì?” Còn Doug thì cười thông cảm, như hiểu ngay về quyết định của tôi. Harold ngồi yên không nói nhưng tỏ vẻ đồng ý thấy rõ.
Tôi duyệt qua những biến cố đưa tôi đến quyết định trên: sự lỡ lời khi nói chuyện ở Owosso, sự bực bội chịu đựng vì không được điều trần, và hơn hết là sự nhận biết rằng tôi không làm chứng cho Chúa trọn vẹn được. Tôi không thể tiếp tục chập choàng, khập khểnh như khi được Mike Wallace phỏng vấn. Tôi nói với mọi người, sau buổi phỏng vấn đó, tôi biết mình phải làm gì.
Graham mở miệng đầu tiên, “Những điều mà anh sẽ thú nhận không phải là tội gì cả, vả lại trong cả hai tội họ đưa ra tôi thấy họ không thể nào kết án được. Anh không thể tự nhiên quyết định mình sẽ vào tù. Tôi không nghĩ rằng anh phải làm như thế mới là một tín đồ Tin Lành.
Harold lắc đầu, “Tôi đã cầu nguyện cả tuần nay là Chuck sẽ quyết định như thế và kiên trì làm theo bởi lòng tôi biết việc đó là phải làm. Việc nầy có thể khiến những người khác làm theo, bởi các anh thấy không, cái đau đớn quằn quại này của cả quốc gia phải có ngày chấm dứt chứ”.
Doug đồng ý hết mình, nhưng Graham vẫn chưa chịu, nhất là khi nghe tôi trình bày về hình phạt có thể xảy ra và tôi có thể bị tước chức luật sư. Anh nói, “Các anh không thể mong tôi cầu nguyện để vị Thẩm Phán chấp nhận chuyện này được”.
Tôi trà lời, “Ðây là điều tôi muốn anh chấp nhận nhưng chỉ khi nào trong lòng anh cũng muốn thế. Dave cho biết có hi vọng 50 phần trăm là Thẩm Phán Gesell sẽ chấp nhận. Chúng ta cần cầu nguyện”.
Theo đề nghị của Harold, chúng tôi ghi xuống rõ ràng những gìø tôi sẽ nói vào ngày mai, dựa trên giả thuyết là lời thú tội sẽ được chánh án chấp nhận. Trong khi đó Doug bắt được liên lạc với Al qua điện thoại. Anh quyết định nhanh chóng. Anh nói với tôi: “Tôi thấy tốt lắm, tôi đã hi vọng anh làm như vậy từ lâu rồi. Tôi đồng ý với anh hết mình. Chúa sẽ ban phước cho anh”.
Graham là người duy nhất chống chuyện nầy. Anh đi tới đi lui trước ngọn lửa trong phòng, thỉnh thoảng quay mặt đi cố giấu những cảm xúc trên khuôn mặt. Là một chánh an vùng Texas trước đây, anh không thể quên được những nhà giam tối tăm ghê rợn mà chính anh đã từng ra bản án cho biết bao nhiêu người phải vào đó nhiều năm. Cuối cùng anh gật đầu đồng ý. “Nếu đây là cách để anh được tự do về tâm linh thì tôi đồng ý theo các anh. Nhưng mấy anh ơi, tôi cảm thấy đau đớn chịu không được”.
Chúng tôi cầu nguyện với nhau một hồi lâu.
Harold hỏi tôi khi tiễn anh ra xe lúc quá nửa đêm, “Việc này sẽ có ảnh hưởng gì đối với Tổng Thống và việc ông bị truy tố?”
Tôi trả lời, “Lợi cũng có mà hại cũng có”.
Harold trầm ngâm, “Tôi cũng nghĩ như vậy”. Ðoạn anh nắm vai tôi bóp mạnh như muốn nói gì rồi lên xe ra về.
9 giờ sáng thứ hai. Tôi đang xem qua những giấy tờ trên bàn giấy, đọc lại lời khai của tôi và nóng lòng chờ điện thoại reo. Patty đang nói chuyện với Holly ở văn phòng nhỏ bên ngoài. 9 giờ 5 phút, điện thoại vẫn chưa reo. Không biết Dave Shapiro có bị trụt trặc gì với Thẩm Phán không? Cách đó ba dặm vể phía tây trong một ngôi nhà màu trắng ở bên đường Embassy, tôi biết Harold, Doug, Al và Graham đang cầu nguyện xin Chúa dẫn dắt quyết định của viên Thẩm Phán.
Ðúng 9 giờ 12 phút, điện thoại reo. Giọng của Dave nghiêm trọng: “Ðược, qua đây đi. Suýt chút nữa là không thành. Mau lên nghe”.
Ðây đến tòa án cũng khoảng chừng mười lăm phút lái xe nhưng tôi cần phải gọi điện thoại trước cho Tổng Thống. Giọng nói niềm nở, quen thuộc của người điều khiển máy điện thoại tại Tòa Bạch Ốc cho hay Tổng Thống đang bận tiếp khách. “Nếu thế thì cho tôi nói chuyện với Fred Buzhardt. Nhanh lên nhé, gấp lắm”.
Buzhardt đang họp với các nhân viên cao cấp khác, nhưng chỉ vài giây sau đã đến ống nghe ngay. “Fred, anh nói lại với Tổng Thống ngay bây giờ để ông biết tin này từ tôi trước nhất nghe. Tôi sẽ nhận tội sáng nay, nhưng tôi sẽ không làm gì có hại cho ông ấy cả. Tôi chỉ nói sự thật mà thôi”.
Có tiếng nghẹn thở, rồi một hồi yên lặng, “Nhưng tại sao?”
“Fred, chỉ có sự thật, tôi phải làm thế. Tôi sẽ giải thích cho anh sau”.
Tòa án đầy những khuôn mặt quen thuộc của phóng viên, nhà hí họa, và những người tò mò. Tôi bước qua cổng đi vào khu vực dành cho luật sư rồi tiến đến bàn của luật sư bị cáo nơi Dave đang đợi với khuôn mặt nghiêm trọng. Patty len lẻ bước vào hàng ghế dành cho người dự thính ở phía sau. John Ehrlichman, đang đứng gần đó nói chuyện với luật sư của anh ta, tay vuốt cằm ra dáng suy tư.
Tiếng nói của xướng ngôn viên tòa án vang lên “Tòa Án này. . . ” Thẩm Phán Gesell bước vào tòa từ góc phòng ngay sau những bục cao. Tim tôi đập mạnh. Tôi biết những gì mình sắp phải làm, tuy nhiên đây vẫn là lúc nghiêm trọng, đáng lo sợ. Người ngồi trên ghế chánh án này hiện đang nắm vận mạng đời tôi và chính ông có thể quyết định vận mệnh ấy. Nói rằng đời tôi để tòa án xử theo ý của tòa án cũng chưa đủ, bởi người bị cáo trước một quyền lực tuyệt đối như vậy thấy mình hoàn toàn bị trói tay, bât lực.
Viên chánh án tuyên bố trước tòa sẽ có bản “cáo trạng” trước khi bàn đến những trát đòi hầu tòa. Giới luật sư biết ngay đây chỉ có nghĩa là bị cáo sẽ nhận tội, họ đảo mát nhìn quanh như cố tiên đoán bản án. Khi chánh án ra lệnh cho công tố viên Merrill bước lên, tiếng xì xào ngạc nhiên lộ rõ.
Merrill đọc bản cáo trạng đối với bị cáo Charles W. Colson. Dave và tôi bước lên đứng bên cạnh Merrill trong khi ông ta đưa bản cáo trạng cho nhân viên để chuyển lại cho chánh án. Bao nhiêu năm nghe những câu chuyện trộm cướp, giết người, và hãm hiếp đã làm cho những nhân viên tòa án trong bộ đồ đen tươm tất lạnh lùng, chai hết một cách hết sức là thiện nghệ. Như những người máy dửng dưng trước mọi cảm xúc của con người chung quanh, họ đi tới đi lui trong tòa, chuyển giấy tờ, ghi xuống mọi nghị án, mọi lời khai, họ tống những nhân chứng một cách bình thản tự nhiên. Nhưng lạ thay hôm nay, họ đứng nhìn tôi đăm đăm. Trong một giây phút chấn động không kiểm soát, tôi thấy trong đôi mắt của một nữ nhân viên nét thương hại khiến lòng tôi ấm hẳn lại.
Viên chánh án bắt đầu hỏi tôi. Tôi khỏi cần bổi thẩm đoàn phải không?
“Thưa Ngài, dạ phải”, tôi trả lời, cảm thấy yên tâm bởi giọng nói của tôi vẫn còn rõ ràng, dõng dạc, mặc dầu đầu gối rung như cầy sấy.
Ðoạn Bill Merrill đọc lên bản cáo trạng: “Chúng tôi tố cáo rằng bị can Colson đã âm mưu trong kế hoạch nhằm tìm kiếm những tin tức có tính cách hạ nhân phẩm của Daniel Ellsberg, để mạ lỵ và hủy hoại uy tín cũng như hình ảnh đối với công chúng của ông Ellsberg. . . ” chỉ có Bill Merrill, Dave Shapiro và tôi biết là chính tôi đã viết bản cáo trạng trên, đã cung cấp những dữ kiện và yêu cầu “được” tố cáo bằng những lời hiện vang ra khắp tòa án “. . . để gây ảnh hưởng, cản trở và làm chậm mọi công việc đối với vụ án Ellsberg”. Cản trở công lý là một tội nhục nhã nhất đối với luật sư. Bây giờ tôi thoát được khỏi quá khứ, tôi tự nhắc nhở chính mình khi ngẫm nghĩ từng chữ một trong bản cáo trạng.
Chánh án Gesell quay qua tôi nghiêm trang nói, “Với sự nhận tội của bị can và bị can từ chối những quyền bảo vệ dành cho bị can ghi trong Hiến Pháp, bị can hiểu là tòa chỉ còn cách xử tôi bị can chứ?”
Tôi trả lời, “Dạ thưa, đúng”. Tôi lấy bản lời khai ra. Giọng tôi run lên. “Tôi đã nhận thức được từ đáy sâu trong lòng tôi rằng những đe dọa từ công quyền nhằm lay chuyển những phán án vô tư đối với những bị cáo được đề cập trong bản cáo trạng trên cần phải được chấm dứt, và thưa Ngài, qua sự nhận tội này, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả nhằm ngăn chận những tội trạng tương tự trong tương lai”.
Gesell hỏi câu cuối cùng theo thủ tục tòa án, “Bị can còn muốn nhận là mình có tội?”
“Dạ thưa Ngài, phải”.
Cả phiên tòa kéo dài chưa tới mười phút. Hình phạt sẽ được định vào phiên tòa ngày 21/6/1974. Không còn hiều thì giờ để thâu thập những thư từ và bản đệ trình nhằm vận động chánh án nhẹ tay trong hình phạt được. Mọi việc cần phải tiến hành nhanh chóng. Tôi sắp là nhân chứng trước Ủy Ban Tư Pháp Hạ Viện và tôi muốn được biết hình phạt trước để những lời nói điều trần của tôi – dù là trong tiềm thức – sẽ được vô tư hoàn toàn và không sợ bị hiểu lầm nghi kỵ. Viên chánh án ra lệnh tôi trình diện gấp cho nhân viên lo vấn đề tạm thích và với sự đồng ý của Merrill tôi được tại ngoại không tiền thế chân.
Báo chí vội vàng rời tòa án chạy đến những điện thoại công cộng. Tôi là người đầu tiên trong vòng thân cận của Tổng Thống bị án như vậy mà không có một dấu hiệu mảy may cho gì trước đó. Mặc dầu Washington đã quá quen với những tiết lộ về Watergate mỗi ngày, nhưng tôi biết chắc mẫu tin này sẽ gây nhiều vang dội lớn, hy vọng sẽ có một số mang tính cách xây dựng.
Khi tôi vừa quay đi khỏi bàn, Bill Merrill là người đầu tiên bước đến. Anh ta nắm chặt tay tôi nói, “Chuck, tôi thành thật chúc anh may mắn.” Jim St. Clair đứng phía sau Bill Merrill chừng vài bước, người mà vài tháng trước đây đã nói với tôi tuy quả quyết là tôi vô tội nhưng chỉ hy vọng năm mươi phần trăm khi ra trước tòa. Hiện nay, anh ta đang cố gắng trước những khó khăn tột cùng để cứu Richard Nixon với niềm hy vọng mong manh hơn nhiều. Anh cố nói ra lời, “Tôi chúc anh mọi điều tốt đẹp nhất”.
Vào bên trong văn phòng tạm thích với những bức tường trơ trọi, sự chấn động tình cảm qua đi, tôi bắt đầu cảm nhận cái thực tế thế nào là một tội nhân. Nơi đây, người nhân viên làm bản báo cáo về tôi như thường ngày ông ta vẫn làm đối với bao nhiêu vụ án khác của những hình phạm, những kẻ hiếp dâm, những tên trộm và những người buôn bán thuốc phiện. Mặc dầu trước đây tôi đã tới những văn phòng này, nhưng điều ấy không giúp tôi sẽ rơi vào tay những nhân viên tạm thích GS-7, lính canh tòa án và những cai tù. Cản giác đánh mất sự kiểm soát trên thể xác và đời sống của mình là một cảm giác tôi chưa từng bao giờ thấu hiểu.
Tôi cố gắng kềm hãm mọi cảm xúc, nhưng khi nhìn thấy dáng của Doug Coe vẫy tay ở ngoài cửa chận bởi hai viên cảnh sát canh gác, nước mắt bỗng tuôn trào. Anh luôn luôn có mặt trong những lúc cần thiết nhất. Tôi yêu cầu viên cảnh sát cho Doug vào trong. Doug bước vào, theo sau là một nhóm người nhỏ từ tòa nhà Thông Công, kể cả tiến sĩ John Curry và vợ ông là Besty, người đã làm việc mỗi đêm tới khuya trong nhiều tuần lễ giúp chúng tôi đóng tập những bài báo để nộp cho tòa án. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Tôi tự hỏi những người nhìn thấy cảnh ấy thấu hiểu cho có những người bạn như thế quý giá và ý nghĩa như thế nào.
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.