Theo Dấu Chân Chúa: Chương 1
THEO DẤU CHÂN CHÚA
Chương 1
“Anh em đã được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài”
Gần hết buổi sáng thứ sáu, thế mà Mục sư Henry Maxwell vẫn còn loay hoay chưa soạn xong bài giảng để chuẩn bị cho buổi thờ phượng vào Chúa nhật sắp đến. Ông đi đi lại lại trong phòng miên man suy nghĩ, hình như có nhiều sự ngăn trở nào đó trong lòng ông. Sau một thoáng, ông bước lên lầu và gọi vợ:
– Mary ơi! Lát nữa nếu có ai cần gặp anh, em nói rằng anh đang bận không tiếp khách được nhé!
– Dạ!… À. Mà em còn phải đến nhà trẻ, anh ở nhà một mình đấy!
Từ phòng dưới, tiếng Mary vọng lên nho nhỏ.
Vài phút sau, Mục sư Henry nghe tiếng chân Mary đi dọc ra ngoài hành lang. Xung quanh ông, mọi thứ đều trở nên yên lặng. Ông quay vào phòng, đóng cửa lại, tiếp tục soạn bài.
Cảm thấy lòng thanh thản hơn đôi chút, ông bắt đầu viết. Dựa vào lời Chúa trong Kinh Thánh sách IPhi-e-rơ 2:21, ông lấy chủ đề: “THEO DẤU CHÂN CHÚA” để xây dựng bài giảng của mình.
Phần đầu, ông nhấn mạnh vấn đề căn bản: Chúa Giê-xu Christ đã chịu chết để chuộc tội lỗi cho con người. Ông muốn giải thích cho mọi người nhận biết rằng chính Đấng Christ đã chịu khổ hình để gánh tội cho họ. Tiếp theo phần hai: ông đã trích những lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu trong Kinh Thánh và cuộc đời của chính Ngài để chứng minh rằng Chúa đã bày tỏ chính Ngài là gương sáng cho mọi người noi theo. Còn trong phần cuối cùng của bài giảng, ông nêu lên những điều kiện cần thiết để bước theo chân Chúa. Trong lúc ông đang nghĩ ngợi về những điều kiện cần thiết ấy “…là những điều gì đây?”, bất chợt, có tiếng chuông gọi cửa réo lên dồn dập, cắt ngang dòng suy tưởng của ông. Ông cau mày tỏ vẻ bực mình lắm. Tiếng chuông quấy rầy lại réo nữa, dồn dập hơn. Ông miễn cưỡng đứng dậy, đi về phía cửa sổ, nhìn xuống sân nhà.
Bên dưới, một người đàn ông lạ mặt đang đứng ngay bậc thềm. Anh ta ăn mặc rách rưới, bẩn thỉu. Vị mục sư chép miệng: “Trông chẳng khác nào một kẻ lang thang!” và ông đi xuống lầu.
Cánh cửa trước mặt người khách lạ được mở ra. Mục sư Henry và vị khách không mời mà đến nhìn nhau không chớp mắt trong một thoáng yên lặng. Một vài phút sau, anh ta lên tiếng trước:
– Thưa ông, tôi đang thất nghiệp. Ở đây có việc gì làm, ông cho tôi làm với!
– Ái chà! Ở đây chẳng có việc gì làm đâu! Anh cảm phiền đến nơi khác…
Vừa nói, mục sư từ từ khép cánh cửa lại. Người lạ mặt lại khẩn nài:
– Xin ông hãy làm ơn, làm phúc giúp tôi! Chẳng hiểu sao tôi lại cứ hi vọng nhiều ở ông. Ông à! Ông có thể giới thiệu cho tôi một việc gì đó ở ga xe lửa hoặc làm bảo vệ ở một nhà hàng chẳng hạn…
Giọng anh ta đượm vẻ lo âu, bối rối. Đôi tay anh cứ mân mê chiếc mũ nỉ đã sờn, cũ nát.
– Xin lỗi anh, tôi đang bận, không thể giúp được gì cho anh trong lúc này. Vả lại, khả năng của tôi hạn hẹp lắm. Thôi chào anh! Chúc anh tìm được một việc làm nào đó như anh mong muốn! – Mục sư tiếp tục từ chối và đóng hẳn cửa lại.
Tiếng chân của người đàn ông lạ mặt xa dần. Mục sư trở lại phòng làm việc của mình và nhìn qua cửa sổ. Kìa, anh ta đang chậm chạp đi băng qua đường lộ, hai tay vẫn giữ chặt chiếc mũ, dáng điệu trông thiểu não và chán chường chẳng khác nào một kẻ vô gia cư và bị bỏ rơi. Điều đó làm cho mục sư suy nghĩ và lưỡng lự. Dầu vậy, ông cũng cố hoàn tất bài giảng, và đặt nó lên trên cuốn Kinh Thánh bìa da quen thuộc của mình.
– Anh à! Hồi sáng ở nhà trẻ có xảy ra một việc kỳ lạ!
Bà mục sư nói với chồng khi họ đang dùng cơm tối.
– Anh biết không? Lúc bọn trẻ ra chơi, em và bà Brown đến thăm chúng, thì thấy ở đó có một người đàn ông lạ mặt rách rưới, với chiếc mũ dơ bẩn trên tay. Anh ta ngồi bệt xuống ngạch cửa, nhìn bọn trẻ chơi, không nói một lời nào. Một lúc lâu, anh ta mới chịu đứng dậy đi ra. Trông anh ta chẳng khác nào một kẻ vô gia cư vậy đó!
– Chắc thế! Cũng có thể anh ta đi đường quá mệt mỏi, muốn tìm chỗ nào đó để nghỉ ngơi một chút. Theo lời em tả, sao anh thấy người đó rất giống người đã bấm chuông nhà mình vào sáng nay quá! Em nói rằng trông anh ta như một kẻ lang thang không nhà, phải không?
– Vâng! Em thấy dáng vẻ anh ta rất bụi đời, như một kẻ lang thang thực thụ. Em đoán chừng anh ta khoảng ba mươi tuổi là cùng!
– “Chắc là anh chàng ấy rồi!” – Mục sư Henry thầm nghĩ.
– À, này, anh soạn bài giảng xong chưa vậy? Như sực nhớ ra, bà mục sư vội hỏi chồng.
– Xong rồi! Tuần này bận quá chừng! – Mục sư chắt lưỡi.
– Anh định giảng về đề tài gì thế?
– “Theo dấu chân Chúa”. Anh sẽ trình bày về sự cứu chuộc của Chúa Giê-xu, gương sáng về cuộc đời Ngài và những điều cần thiết cho một người theo Chúa. Em thấy thế nào?
– Em tin chắc đó là một bài giảng hay. Mong sao sáng Chúa nhật này, trời đừng mưa! Dạo này trời hay mưa quá!
– Ừ, nếu trời mưa, chắc ít người đi nhà thờ lắm.
Mục sư Henry thở dài. Ông lo lắng cho bài giảng của ông sẽ không được nhiều người nghe. Ông sợ phí công sức mà ông đã bỏ ra để chuẩn bị. Cho nên, ông thầm mong tín hữu đến dự nhóm thật đông đủ.
Bẵng đi khá lâu, hôm nay, người dân thành phố Raymond mới được thấy một buổi sáng Chúa nhật bình yên, vắng mưa bão, lầy lội.
Không khí trong lành, bầu trời quang đãng. Các tín đồ Cơ-đốc lũ lượt đi nhà thờ. Ai nấy ăn mặc đẹp đẽ, tươm tất, lộ vẻ giàu sang quý phái của tầng lớp thượng lưu ở thành phố Raymond sầm uất này. Hội Thánh Tin Lành Raymond khai lễ vào lúc mười một giờ sáng. Nhà thờ đông nghẹt người.
Sau lời cầu nguyện khai lễ, nhạc được trổi lên. Sáng nay ban hát lễ đã đem lại niềm vui lớn cho Hội thánh. Những bài thánh ca thật truyền cảm, tập trung vào chủ đề bài giảng của Mục sư Henry:
“Ôi Chúa Giê-xu, con đã vác thập tự giá
Từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài”
Trước giờ giảng luận, cô Rachel Winslow, một giọng nữ cao (soprano) tôn vinh Chúa bài thánh ca nổi tiếng, có nội dung rất phù hợp với giai điệu của nó:
“Nơi nào Chúa dắt con đi, con sẽ theo gót Ngài
Cùng đi với Ngài, với Ngài luôn mọi đường”
Sáng nay, trông cô ta rất rạng rỡ và xinh xắn. Giọng hát của cô vốn ấm, hôm nay lại càng truyền cảm hơn. Ngồi sau tòa giảng, Mục sư Henry tỏ vẻ rất hài lòng. Từ trước đến giờ, giọng hát lôi cuốn của Rachel đã hỗ trợ rất nhiều cho những bài giảng của ông. Rachel thường hát những bài thánh ca được Mục sư Henry sắp xếp trước cho phù hợp với nội dung bài giảng, góp phần làm tăng thêm sự cảm động cho lời ông giảng.
Có rất nhiều người hâm mộ giọng hát của Rachel, họ cho rằng Rachel là người hát hay nhất trong nhà thờ này. Sau khi hát xong, Rachel trở về chỗ mình. Bỗng nhiên, Mục sư Henry nghe dường như có tiếng vỗ tay nho nhỏ và tiếng chân của ai đó bước nhẹ trên sàn ở phía sau nhà thờ. Thế nhưng, lúc bước lên tòa giảng, ông lại tự nhủ: “Có lẽ mình bị cảm giác đánh lừa về những tiếng động ban nãy.” Vài phút sau, ông đã say sưa với bài giảng của mình, quên khuấy mọi thứ xung quanh.
Với lời lẽ và cách diễn đạt đặc biệt, Mục sư Henry thuờng đem lại nhiều sự cảm động cho Hội thánh qua bài giảng. Hội thánh Raymond cũng rất hãnh diện về tài giảng dạy của Mục sư Henry. Bản thân ông cũng rất thích chia xẻ ở nhà thờ Raymond này hơn là ở các nơi khác. Ông thường ao ước luôn được giảng ở nhà thờ này trong mỗi sáng Chúa nhật. Ông thấy vui và hào hứng khi Hội thánh có đông người dự nhóm. Trái lại, ông không bao giờ giảng trôi chảy và thỏa lòng nếu buổi nhóm có quá ít người tham dự. Sáng nay, ông cảm thấy được khích lệ và phấn khởi trước sự đông đảo của Hội thánh. Ông giảng say sưa và nhiệt tình. Bài giảng có sức thuyết phục và lôi cuốn người nghe, nó đọng lại trong lòng mỗi người nhiều điều dạy dỗ và suy nghĩ. Ai nấy đều lộ vẻ hoan hỉ trên nét mặt vì họ đã hiểu được Lời Chúa. Họ rất tự hào về vị mục sư thông thái, lịch thiệp đã truyền sứ điệp của Chúa đến cho họ trong sáng nay.
Trên tòa giảng, gương mặt Mục sư Henry dường như rạng rỡ hẳn lên. Ông cầu nguyện để kết thúc bài giảng, lời cầu nguyện của ông thật sống động và tràn ngập linh lực. Mọi người cảm thấy thanh thản và đồng lắng lòng hiệp ý với lời cầu nguyện của ông.
Tiếp sau phần giảng luận, ban hát lễ đang chuẩn bị bước lên tôn vinh Chúa bản thánh ca kêu gọi:
“Tất cả cho Giê-xu, tất cả cho Giê-xu
Chính Ngài là quyền năng cứu chuộc của con”
Bỗng toàn thể Hội thánh nhốn nháo hẳn lên vì sự xuất hiện đột ngột của một người đàn ông lạ mặt. Từ sau tấm phong của nhà thờ có vẽ hình mão triều thiên, anh ta bước ra và đi thật nhanh giữa hai hàng ghế của ban hát lễ. Anh ta đàng hoàng bước tới trước tòa giảng, quay mặt xuống phía hội chúng:
– Kính thưa quý vị! – Anh ta nói to, giọng điềm tĩnh.
– Tôi chỉ muốn được nói vài lời tại đây trước khi buổi nhóm kết thúc. Xin nói trước với quý vị rằng tôi không phải là một kẻ say rượu hay là tâm thần. Tôi là một người hoàn toàn bình thường. Tôi cũng không có ý định làm hại ai ở nơi đây đâu! Thưa quý vị! Có thể trong vài ngày nữa tôi sẽ chết. Nhưng tôi sẽ rất thỏa lòng khi nói lên được vài điều này với quý vị.
Lúc ấy, Mục sư Henry vẫn chưa kịp ngồi xuống ghế của mình. Ông đưa mắt quan sát người lạ mặt từ đầu đến chân. Chợt, ông “à!” lên một tiếng: “Đúng là kẻ lang thang đã đến nhà mình vào sáng thứ sáu vừa rồi!”. Trông anh ta thật rách rưới và tiều tụy, tóc tai bù xù, râu ria lởm chởm, đôi tay gầy khẳng khiu và dơ bẩn vẫn giữ chặt chiếc mũ bạc màu và sờn nát. Có lẽ đó là thói quen của anh thường làm khi nói chuyện với người khác thì phải.
Thường thường, người ta bắt gặp những mẫu người như người đàn ông này nơi những công viên vắng vẻ, dọc đường phố hoặc bến xe, bến tàu v.v… chớ ít ai nghĩ rằng một người như anh ta lại có mặt tại nơi trang nghiêm này. Mục sư Henry cũng ngạc nhiên không kém. Ông càng ngạc nhiên hơn nữa khi ông nghe người lạ mặt cất giọng nói nhỏ nhẹ lại lưu loát. Điều đó chứng tỏ anh ta rất bình tĩnh, không bị kích động chút nào. Đột nhiên, Mục sư Henry sực nhớ lại hình ảnh một người mà ông đã có lần gặp trong giấc chiêm bao cách đây không lâu.
Có một điều lạ: chẳng ai trong nhà thờ lúc ấy tỏ ra phản đối hành vi của người lạ mặt, trái lại, họ còn tỏ ra chăm chú nghe anh ta nói. Anh ta càng nói, khuôn mặt của Mục sư Henry càng biến sắc, trở nên trắng bệch, lộ vẻ buồn thảm. Từ phía dàn nhạc, cô Rachel há hốc miệng, mở tròn mắt nhìn trân trân như muốn dán chặt vào người đàn ông lạ ấy. Gương mặt Rachel càng lúc càng biến sắc, Rachel cảm nhận một điều gì đó đang nóng cháy trong lòng mình. Hội thánh yên lặng nặng nề. Điều này càng làm cho tiếng nói của kẻ lang thang trở nên rõ ràng và lớn hơn.
– Tôi không phải là một kẻ lang thang, dầu vậy tôi không thể hiểu nổi điều này: Phải chăng sự cứu chuộc của Chúa Giê-xu dành cho những kẻ vô gia cư thì ít hơn so với những hạng người khác trong xã hội? Có đúng vậy không?
Anh ta nêu lên câu hỏi làm mọi người suy nghĩ. Anh ta đang đặt ngược vấn đề với Hội thánh. Ngừng một chút, anh ta ho sù sụ, giọng đứt quãng:
– Tôi… tôi đã mất việc… làm cách đây mười tháng… Tôi vốn… là một thợ in chuyên nghiệp. Đứng trước những cỗ máy sắp chữ hiện đại, tôi hi vọng tràn trề – hi vọng về một cuộc sống khá hơn cho gia đình tôi. Không ngờ, từ lúc xuất hiện những máy móc ấy, xí nghiệp của tôi đã có sáu người tự tử vì họ bị thất nghiệp. Và tôi cũng thế mà thôi. Nhưng tôi chỉ có mỗi điều khác họ, là tôi thất nghiệp chứ chưa tự tử! Dĩ nhiên, tôi không thể đổ lỗi cho sự có mặt của máy móc. Nhưng tôi chỉ biết có mỗi nghề in thủ công là nghề tôi học được. Tôi không biết phải làm gì trong khi chờ đợi một việc làm khác. Tôi đã đi lang thang hết nơi này đến nơi khác nhưng ai cũng từ chối tôi kể cả những tín đồ như các vị cũng từ chối nốt. Có rất nhiều người cùng chung số phận như tôi chứ không riêng gì mình tôi.
Thưa Hội thánh, Hội thánh đừng hiểu lầm tôi đến đây để phàn nàn hay đòi hỏi điều gì. Tôi không phàn nàn ai cả, tôi chỉ muốn trình bày một sự thật. Lúc nãy, ngồi ở phía sau tấm phông nhà thờ, tôi ngạc nhiên vô cùng khi nghe những lời lẽ kêu gọi hội chúng: vâng lời, trung tín, yêu thương và phải noi theo dấu chân Chúa. Tôi biết rằng điều mà mục sư muốn nhấn mạnh với quý vị là điều cuối cùng. Vậy, đối với một người Cơ-đốc thì theo dấu chân Chúa nghĩa là gì nhỉ? Mục sư muốn nói gì khi ông ấy giảng: “Hãy theo Ta”? Còn tôi, đã lang thang suốt ba ngày nay trong đói khát khắp thành phố sầm uất này để tìm một việc làm, nhưng tôi thất vọng. Trong suốt thời gian đó, ai cũng xua đuổi tôi, không cho tôi một lời an ủi hoặc thông cảm nào, ngoại trừ một lời thương hại chúc tôi sớm tìm được một việc gì ở đâu đó của Mục sư Henry. Tất nhiên, tôi hiểu rằng quý vị không thể vượt khả năng của mình để giúp đỡ người khác về vật chất, việc làm. Nhưng tôi cảm thấy thật khó hiểu về ý nghĩa của việc theo dấu chân Chúa Giê-xu. Khi quí vị hát: “Con sẽ cùng đi với Ngài, với Ngài luôn mọi đàng!”. Quí vị muốn nói gì qua lời bài hát đó? Phải chăng, quí vị muốn nói: quí vị đang chịu khổ, quên mình và đang cố gắng dự phần vào việc giải cứu tội nhân như Chúa Giê-xu đã từng làm? Làm sao quí vị chứng minh được điều đó? Tôi đã được nhìn thấy mặt trái của vấn đề này. Tôi biết chắc hiện nay ở thành phố Raymond có trên năm trăm người đồng cảnh ngộ với tôi: không việc làm, không nhà ở. Quí vị biết không? Vợ tôi đã chết cách đây bốn tháng. Tôi lấy làm vui mừng vì cô ấy đã được giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Chết để không còn phải khổ nữa. Cô ấy ra đi, để lại cho tôi một đứa con gái nhỏ, khờ dại. Tôi đã đem nó gửi tạm ở nhà ông chủ nhà in, chờ đến khi nào tôi xin được việc làm thì đón nó về. Những lúc đi lang thang tìm việc, tôi thấy nhiều người Cơ-đốc sống xa hoa, không thèm quan tâm đến thân phận người khác. Vậy mà sáng nay, họ có mặt giữa những người đang hát trong nhà thờ này rằng: “Ôi Chúa Giê-xu, con vác thập tự giá, từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài!”. Và…tôi…tôi nhớ…lại cái chết của vợ tôi trong một chung cư ổ chuột rách nát ở New York hôm nào. Lúc hấp hối, cô ta cứ kêu cầu Đức Chúa Trời mãi một điều: hãy cất luôn đứa con gái nhỏ của mình theo với cô ấy. Cuộc sống khốn khổ này quả là khủng khiếp đối với gia đình tôi. Cảm thấy chết là hạnh phúc hơn là sống như thế này. Vậy chúng tôi sống theo Chúa Giê-xu để được cái gì? Chỉ có ốm đau, đói khát, không nhà, không cửa. Tôi cũng biết một điều này nữa: nhiều Cơ-đốc nhân là những chủ nhân của nhiều chung cư với cuộc sống thừa mứa của cải. Một buối tối nọ, tôi đứng ngoài bậc thềm của nhà thờ, nghe người ta hát:
“Tất cả cho Giê-xu, tất cả cho Giê-xu.
Chính Ngài là quyền năng cứu chuộc của tôi.
Cho Ngài tất cả niềm suy tưởng và việc làm của tôi.
Cùng tất cả những ngày và thì giờ của tôi.”
Tôi cứ thắc mắc mãi về điều này. Đối với tôi, dường như đó là điều đau đớn, khủng khiếp nhất trên đời này. Bởi vì có những người tuy hát như thế, mặc những bộ quần áo sang trọng để đi nhà thờ, nhưng cuộc sống thực tế của họ thì không như lời họ hát. Thật là một sự giả hình không chiụ nổi. Vậy, “theo Chúa Giê-xu” nghĩa là gì? Theo Ngài để làm cái gì? Được cái gì?
Cùng một thời điểm, những người trong các nhà thờ lớn thì ăn mặc đẹp đẽ, chưng diện, nhà cửa của họ thì sang trọng, tiền bạc rủng rỉnh, họ có thể đi nghỉ mát bất cứ lúc nào hoặc làm bất cứ điều gì họ thích, họ cũng đã vơ vét, sống xa hoa trên xương máu, mồ hôi của những người làm thuê cho họ. Trong khi đó, bên ngoài thềm nhà thờ, hàng ngàn người đang chết đói trong các căn nhà thuê hoặc lang thang trên các đường phố, sống lây lất để tìm việc làm. Họ mơ đến một bữa ăn no cũng không có. Họ đã được sinh ra và lớn lên trong cảnh khốn cùng và chìm đắm trong nghèo đói và…“
Đang nói, người đàn ông bỗng lảo đảo và ngã nhào về phía bàn tiệc thánh, hai bàn tay dơ bẩn của anh ta chới với, bíu lấy cạnh bàn, chiếc mũ cũ mèm rơi xuống nằm bên chân anh ta trên tấm thảm sạch sẽ và mới tinh. Hội chúng nhốn nháo hẳn lên, phá vỡ sự im lặng, trang nghiêm. Bác sĩ West cũng nhổm lên khỏi chỗ ngồi của mình.
Người đàn ông chợt nẩy người lên, đưa tay trái lên ôm lấy ngực, té sấp xuống, nằm dài trên lối đi ngay đầu các dãy ghế
Mục sư Henry vội tuyên bố:
– Thưa Hội thánh, giờ nhóm được chấm dứt ở đây!
Xong, ông rời khỏi tòa giảng, bước đến quỳ xuống bên cạnh thân thể người đàn ông xa lạ. Lập tức, hội chúng ùn ùn kéo ra hành lang. Người ta chen lấn nhau thật là mất trật tự. Một số người đến phụ với bác sĩ West dìu người đàn ông lạ mặt vào bên trong văn phòng của mục sư. Bác sĩ West bảo rằng anh ta vẫn còn sống, chỉ bị “sốc” vì có vấn đề ở tim anh ta.
Thư Viện Tin Lành
www.thuvientinlanh.org
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.