Trung Tâm Yêu Thương
Bài Dự Thi Viết Truyện Ngắn Hướng Đi
Trung Tâm Yêu Thương
Đám tang Bác Lân thật đông người, hơn ba trăm. Một câu hỏi được lặp lại trong tang lễ tại nhà thờ Báp-tít Westminster: “Tại sao Chúa để Bác Lân bịnh liệt giường 21 năm?” Và một mục sư trích Ê-sai 55:9 để trả lời: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi bấy nhiêu.” Nhưng riêng tôi, câu trả lời là: “Bác Lân được Chúa dùng làm việc lớn: trung tâm yêu thương.”
Gia đình Bác Lân là đại gia đình với vợ và bốn con, hai dâu, hai rể, con, cháu, anh, chị, em, họ hàng nội, ngoại. Hàng trăm người khắp bốn phương trời: Việt, Mỹ, Úc. Không phải bây giờ họ mới tập hợp lại đây trong tang lễ; nhưng hai mươi mốt năm qua họ đã nhiều lần gọi thăm Bác Lân, ghé thăm Bác Lân, cầu nguyện cho Bác Lân. Mỗi lần như thế đại gia đình lại có dịp gặp mặt tề tựu, tương giao với nhau. Chưa nói đến bạn hữu và các hội thánh.
Vô hình chung, Bác Lân là nam châm thu hút nhiều người lại trong tình yêu thương, trong cầu nguyện, trong bữa ăn, trong những lần thăm. Hai mươi mốt năm bịnh trầm kha của Bác Lân tưởng như Bác Lân là gánh nặng của gia đình, của xã hội, nhưng thật ra Bác là nguồn tình yêu kéo hàng trăm người lại với nhau. Chính tôi cũng tình cờ quen được một số người trong những lần họ và tôi không hẹn mà gặp khi ghé thăm Bác Lân. Chúng tôi đã trở thành bạn.
Chúng ta thường đánh giá người khác qua công việc, địa vị xã hội, khả năng làm tiền, hoặc ngoại hình của người đó. Có một vài quan điểm cho rằng: Kiếp trước ăn ở ác nhân nên kiếp này phải gánh hậu quả như vậy.
Riêng tôi không nghĩ thế, vì rõ ràng Bác Lân đem lại phước hạnh cho nhiều người. Bác bị liệt nhưng thật lạ, trí óc Bác rất sáng suốt, ai Bác cũng nhớ. Lần đầu tiên tôi đến thăm Bác khi trở về Cali sau mười năm gặp lại, Bác vẫn nhớ tôi.
-Có phải con ông Trung không? Ông ấy khỏe không? Bác hỏi giọng ngọng nghịu.
-Cám ơn Bác, bố cháu khỏe. Tôi nắm tay Bác vui mừng.
Chẳng những Bác nhớ mọi người, Bác còn nhớ sở thích của vợ con. Tết năm ngoái, ngày đầu năm đi nhà thờ, Bác gái mặc áo dài tím mới may. Tôi khen đẹp.
-Bác trai biết Bác yêu màu tím nên nhờ em gái khi về Việt nam may mang qua làm quà tết cho Bác. Với giọng đầy yêu thương, Bác gái giải thích.
-Bác Lân “Romentic” vậy sao? Chúc mừng Bác. Vợ tôi chen vào.
Tôi thật tâm ngưỡng mộ Bác Lân khi biết điều này. Ra xe, không chờ thêm được nữa, tôi nắm tay vợ siết chặt:
-Anh thua Bác Lân rồi, anh không có quà tết cho em. Xin lỗi em.
-Mau mau xin làm đệ tử Bác Lân là vừa. Vợ tôi vui vẻ.
Bác Lân ơi! Bác là tấm gương cho con cháu. Dù nằm đó nhưng Bác vẫn bày tỏ tình yêu với Bác gái qua một việc vô cùng cảm động, đáng trân trọng. Quà xuân cho vợ: chiếc áo dài màu tím.
Tôi nhớ đến câu Kinh Thánh: “Lòng Đức Chúa Trời yêu chúng ta đã bày tỏ ra trong điều nầy: Đức Chúa Trời đã sai Con một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống.” (I Giăng 4:9)
Tôi chìm vào suy nghĩ. Tâm tư lắng đọng. Bầu trời trong xanh qua khung cửa sổ với những vờn mây ôm ấp, vuốt ve tạo nên sự bình an kỳ diệu.
Tất cả mọi vật hiện hữu trên thế gian này đều bắt nguồn bằng tình yêu. Có ai sống mà không yêu và không muốn được yêu. Yêu là nhu cầu căn bản, cần thiết, và sống còn của con người là chủng loại mang hình ảnh (bản chất) của Đấng dựng nên con người. Ngài là yêu thương, God is love. Thế nhưng chúng ta có thật sống với tình yêu không? Không hiểu điều gì thì không sống trọn vẹn điều đó. Phải hiểu yêu thương rồi mới sống yêu thương.
Thế nên phải học để hiểu yêu thương suốt đời, với mọi nỗ lực bất toàn, mọi kinh nghiệm bất đắc dĩ, mọi môi trường bất khả kháng. Ai muốn được yêu thương cần phải học thực hành yêu thương. Practice makes perfect.
Chắc hiếm người thực hành yêu thương được như Bác Lân gái. Mười chín tuổi Bác đính hôn. Hai mươi tuổi thành hôn. Hai mươi hai tuổi ôm con đầu đời. Mười sáu năm nuôi bốn con trẻ, sống cô đơn đời vợ lính. Trong thời đao binh khói lửa, huynh đệ tương tàn khốc liệt, để lại ba triệu bảy mồ Việt và năm mươi lăm ngàn xác Mỹ.
Thêm tám năm vò võ tay gầy nuôi bầy con khi chồng lính gạt nước mắt, vứt bỏ áo trận để hận mình khoác áo tù chốn rừng hoang gió cát, ngẫm bài, “Gậm một khối căm hờn trong củi sắt, Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.”
Mấy ai ngờ, cô gái xinh xắn, dịu dàng, yêu màu tím hoa sim. Đôi mắt trong sáng, nghịch ngợm nhưng hiền từ. Dáng người thon thả, mảnh mai mà lại có sức mạnh phi thường. Những ngày tháng dài, dài bao nhiêu rồi cũng qua. Tám năm trời đăng đẳng. Nuôi con, nuôi chồng như “cái cò lặn lội bờ sông…” chờ ngày con có cha, vợ lại có chồng.
Ngày vui của gia đình Bác Lân gái được bảy năm (1983-1990) từ khi Bác trai trở về đô thị. Một lần nữa bàn tay oan nghiệt lại cướp đi hạnh phúc đơn sơ của Bác gái: Bác trai bị stroke (tai biến mạch máu não) gây liệt suốt cuộc đời còn lại của Bác (1990-2011). Và đó cũng là quãng đời mà Bác gái học nhiều hơn nữa về yêu thương khi chăm sóc Bác trai hai mươi mốt năm ròng rã.
Mười sáu năm vợ chinh nhân.
Tám năm vợ tù nhân.
Hai mươi mốt năm vợ bịnh nhân.
Thế đó, bốn mươi lăm năm đời Bác Lân gái là những chuỗi tháng ngày học thực hành yêu thương. Dù muốn dù không, dù mạnh dù yếu, dù vui dù buồn, dù cười dù khóc, dù gì đi nữa Bác gái cũng đã trải qua bốn mươi lăm năm thực hành đại mạng lịnh Chúa Giê-xu truyền: Yêu Chúa và yêu người như yêu chính mình.
Tự chúng ta cũng biết, thật vô cùng, vô cùng khó cho Bác gái có thể trải qua cuộc đời như vậy mà không bị cám dỗ bỏ cuộc hành trình vác thập tự giá. Nhất là đối với người phụ nữ có sắc đẹp mặn mà lại thêm tính tình thùy mị và giọng nói gió thoảng của Bác. Ai ở nhà thờ Tin Lành quận Mười lại không biết dung nhan và đức tính của Bác Lân gái?
Năm 1995 gia đình được giấy gọi đi Mỹ theo diện H.O. Mười mấy năm ở Mỹ Bác vẫn ngày đêm chăm sóc Bác trai tại gia. Nhiều người khuyên đưa Bác Lân vào viện dưỡng lão cho đỡ cực. Nhưng tình yêu đã thêm sức và thêm nghị lực cho Bác đủ để say: “No”. Bỏ qua những chuyến đi chơi xa với con cháu, anh chị em, chỉ biết ở nhà lo lắng cho chồng. Mỗi khi xong lễ nhà thờ Bác vội vàng về ngay.
-Bác trai ở nhà trông lắm, về chậm một chút là ông ấy giận bảo: “Sao không đi luôn đi?”, thương lắm con à. Bác vừa nói vừa hé một nụ cười bẽn lẽn như gái mới lớn nói chuyện tình yêu.
Trong cuộc điện đàm dài với Bác, sau đám tang Bác Lân được mười ngày, tôi mạn phép hỏi:
-Nếu Bác phải nói một lời để lại cho chúng con sau những thăng trầm của đời Bác, Bác sẽ nói gì?
Không ngần ngừ, Bác nói như tuôn đổ, giọng tràn xúc động:
-Không có Chúa ban tình yêu thương của Chúa cho Bác, Bác không yêu thương nổi và không làm nổi điều gì. Mình phải dầm mình trong cầu nguyện để hiểu và thực hành yêu thương. Chúa biết sức lực mỗi chúng ta. Hai, ba tháng vừa qua khi Bác trai bệnh quá nặng phải vào điều trị trong dưỡng đường, Bác cực hơn khi ở nhà vì phải đi đi, về về. Bác cảm thấy đuối lắm không thể chịu nổi nữa con à. Hôm ấy, Bác phải đi khám bệnh không vào với Bác trai được. Vừa về đến nhà chưa kịp nghỉ mệt thì Bác sĩ gọi báo cho biết là Bác trai bị stroke lần hai và qua đời. Bác tiếc nuối vì không có mặt lúc Bác trai ra đi, nhưng Bác cám ơn Chúa đã cất Bác trai đi rất nhẹ nhàng ở tuổi 77. Còn về phần Bác, cám ơn Chúa đã cho Bác đeo chiếc nhẫn cưới này đến bây giờ.
Tôi nghĩ, khi nói câu ấy Bác đang nhìn vào bàn tay gầy gò với chiếc nhẫn kỷ niệm đã mấy mươi năm theo Bác như bóng với hình. Tôi im lặng xẻ chia nỗi buồn mênh mông của Bác. Chiếc nhẫn vàng, hình ảnh một vòng tròn không mối nối mà khi kết hôn được gọi là sính lễ, nó tượng trưng cho tình yêu quý giá và bền vững. Một tình yêu chặt không đứt, bứt không rời, đốt cũng không tan. Tình yêu mà Bác trai đã trân trọng trao cho Bác, gửi gấm yêu thương khi đeo chiếc nhẫn vào ngón tay xinh xắn của Bác và hứa với Chúa: “Bởi chiếc nhẫn này, từ nay chúng con là vợ chồng đến suốt cuộc đời”.
Bác sụt sùi, như biết được suy nghĩ của tôi bên này đầu dây:
-Trong ngày hôn lễ sau khi Bác trai đeo nhẫn cho Bác, Bác đã hứa “Dầu thuận cảnh hay nghịch cảnh, dầu giàu hay nghèo, dầu tật nguyền hay nguyên vẹn con cũng không bao giờ lìa xa anh Lân”. Ngày nay Bác đã làm tròn lời hứa nguyện ấy với Bác trai, trước mặt Chúa và trưóc mặt mọi người. Giọng Bác nghẹn ngào, rấm rứt. Tôi sực tỉnh, hình ảnh hai Bác trong ngày cưới như hiện ra trước mắt. “ Mọi vật đều có kỳ định. Có kỳ vui có kỳ buồn. Có kỳ khóc có kỳ cười, Có kỳ sum họp có kỳ chia ly. Có kỳ yêu, có kỳ ghét. Có kỳ sống có kỳ chết…”
Tôi chìm đắm trong dòng suy nghĩ đang xâm chiếm tâm hồn.
Bác Lân gái đã yêu Bác trai cho đến cuối cùng. Tôi thấy Chúa Giê-xu qua Bác “Ngài đã yêu những người của mình trong thế gian, thì Ngài cứ yêu cho đến cuối cùng.” (Giăng 13:1). Kể cả Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là người đã bán Chúa lấy 30 miếng bạc. Tuổi xuân của Bác đã trôi qua trong hy sinh tận tụy cho chồng, con; một sự hy sinh vô cùng dịu ngọt và êm đềm. Bác không sống cho Bác, Bác sống cho mọi người để vinh danh Thiên Chúa.
Khi viết bài này tôi muốn thay Bác gửi gấm lòng biết ơn nước Mỹ, vì theo Bác Lân gái kể, nếu không qua Mỹ chắc Bác trai đã mất lâu rồi. Với nền y khoa hiện đại, dụng cụ tối tân, chế độ ưu đãi đặc biệt cho bệnh nhân, người tàn tật. Bác Lân trai đã được chăm sóc thật đầy đủ và chu đáo từ người vợ thủy chung, những người con hiếu thảo, những y tá, Bác sĩ giỏi, tận tâm.
Bác Lân đã kéo dài những ngày sống trên đất này tưởng như vô ích và là gánh nặng, nhưng, không…
Bác là sợi dây liên lạc trọn lành.
Bác là trung tâm yêu thương.
Một người bạn của chúng tôi khi biết chuyện này đã cảm động và bồi hồi viết lên những dòng thơ:
Yêu Thương Trọn Vẹn
Trong cuộc sống tình yêu là trọn vẹn
Biết yêu thương dâng hiến bảo bọc nhau
Cùng đức tin trung tín và nguyện cầu
Ngài che chở và ban nhiều phước hạnh.
Câu chuyện này làm sao mà so sánh
Bác Lân ơi! Xin học hỏi đức yêu thương
Lời Bác đinh ninh như Đấng vô thường
Không có Chúa sức người làm sao được.
Tuổi con gái có ai mà biết trước
Tròn hai mươi đã sánh bước chung đôi
Hai mươi hai làm mẹ có con rồi
Đời vợ lính trong binh đao khói lửa.
Bốn con thơ mười sáu năm chan chứa
Yêu thương chồng không quản ngại âu lo
Tám năm lặn lội dầm dãi thân cò
Chồng cải tạo miệt mù nơi xứ Bắc
Cuộc chiến tàn nhưng lòng đau như cắt
Tháng năm dài đằng đẵng cũng đi qua
Ngày yên vui trở về lại mái nhà
Cảnh đoàn tụ vợ, chồng, con yên ấm.
Ai ngờ đâu bảy năm dài chung sống
Oan nghiệt thay tai biến lại hoành hành
Gây tê liệt làm sao để công danh
Đời vợ lính, vợ tù và vợ bệnh (*)
Bốn mươi lăm năm thực hành mạng lệnh
Hy sinh vì chồng nuôi nấng đàn con
Công khó yêu thương trọn vẹn chu toàn
Bài học quý chúng con xin ghi nhớ.
Cuộc sống bôn ba gian nan không sợ
Câu chuyện này làm nền tảng yêu thương
Chúa Giê-xu là ánh sáng soi đường
Cho ta bước một lòng luôn trung tín.
(Thơ Hồ Duy Hạ)
Hữu Chang
Chú thích:
(*) Vợ lính 16 năm, vợ tù 8 năm và vợ bệnh nhân 21 năm
Tựa đề: Tình Yêu Chúa Chọn
Sáng tác: Issac Thái
Trình bày: Issac Thái
Bài Mới
Leave a Comment
You must be logged in to post a comment.